30 September 2010

VIỆT TÂN CŨNG LÀ VIỆT CỘNG?

Lê Văn Ấn

   

Ở những bài trước, chúng tôi đã trích những tài liệu chính thức của Việt Tân để xác nhận Việt Tân và Việt Cộng đang cộng tác chặt chẽ với nhau từ trong nước ra hải ngoại. Ðiều đáng tủi hổ cho người Việt Tị Nạn Cộng Sản là đảng Việt Tân lại cam tâm làm em hay tay sai đảng Việt Cộng! Chúng tôi cũng minh xác rằng từ trước đến nay, tuần báo Tiếng Dân vẫn gọi Việt Tân là Việt Cộng nối dài tại hải ngoại. Và sau khi chứng minh những điều xác định trên là đúng sự thật, chúng tôi cũng đã lưu ý đồng hương: chỉ tại đồng hương phần thì thiếu thận trọng, dễ tin, thiếu cương quyết, phần mau quên đã giúp Việt Tân phục vụ Việt Cộng đắc lực tại hải ngoại này. Chúng tôi cũng đưa ra mấy trường hợp ở các thời điểm khác nhau và các địa phương khác nhau để chứng minh: Việt Tân lúc nào cũng thế. Nói cách khác là Việt Tân ở Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu vẫn là em của Việt Cộng.


- Trung Thu năm 1999 tại Houston, Texas, đảng Việt Tân đã lợi dụng Tết Thiếu Nhi để phân phối lén lút lồng đèn của Việt Cộng, lồng đèn nào cũng có khẩu hiệu của Việt Cộng Hồ Chí Minh: "Vì các cháu thiếu nhi, toàn dân ta kháng chiến », cán bộ VC đi chân đất, đội nói cối… Sau khi bị lật tẩy với những chứng cớ không chối cãi được, Việt Tân đã phải công nhận các lồng đèn này của Việt Tân mua năm 1983 tại Hồng Kông?! Ðây là cái tình đồng chí  của Việt Tân đối với Việt Cộng. Phải lén lút, rình chờ có dịp là biểu lộ tình cảm thắm thiết với Việt Cộng, nói Việt Tân là em Việt Cộng có oan không?

   - Khi Trần Trường nịnh Việt Cộng để hình Hồ Chí Minh và lá cờ máu VC trong tiệm của hắn ta, đồng hương Nam Cali hợp cùng đồng hương các nơi khác về biểu tình 53 ngày đêm, ăn Tết luôn tại vỉa hè, trục xuất được Hồ Chí Minh và lá cờ máu. Trong 53 ngày đêm này, không thấy mặt mũi Ðỗ Hoàng Ðiềm và Ðoàn Thanh Niên Phan Bội Châu (của Việt Tân) đâu cả. Nhưng đến khi thấy Hồ Chí Minh và lá cờ máu phải cuốn gói, Ðỗ Hoàng Ðiềm liền xin phép Ban Tổ Chức Biểu tình tổ chức "Ðêm Không Ngủ". Khi được chấp thuận, Ðỗ Hoàng Ðiềm cùng Ðoàn Thanh Niên này lập tức dùng hình ảnh, tài liệu Việt Cộng "Tội Ác Mỹ Ngụy" chiếu slideshow cho đồng bào coi, lại còn thả "bồ câu hòa bình" tâng bốc VC, bà Nguyễn Việt Nữ đã can ngăn nhưng chúng không chịu, đến khi bà tố cáo với đồng bào thì Ðỗ Hoàng Ðiềm năn nỉ "chị tha cho em một lần." Ðỗ Hoàng Ðiềm và thanh niên "Phan Bội Châu" đã trả thù cho Trần Trường và Hồ Chí Minh cũng như lá cờ máu!

   - Cách đây mấy năm, đài phát thanh Chân Trời Mới của Việt Tân đã phát thanh 5 tuần liên tiếp bài viết của tên Việt Cộng Hà Dương Dực tuyên truyền cho Việt Cộng, mạt sát người Quốc Gia thậm tệ, thế mà từ những tên chóp bu cho đến ban biên tập, ban kiểm tin, ban phát thanh vẫn phát đủ 5 lần. Bị đồng bào phản đối và chính Việt Tân cũng phải nhìn nhận đó là bài tuyên truyền cho Việt Cộng. Chỉ có Việt Tân và Việt Cộng là một mới có những hành động khốn nạn như vậy.

- Cộng đồng Việt Nam tại Vương Quốc Bỉ đang có đề án xây bia kỷ niệm và cảm tạ Vương Quốc Bỉ đã đùm bọc giúp đỡ người Việt tị nạn Cộng Sản mấy chục năm qua. Hội Chuyên Gia, một đoàn thể ngoại vi của Việt Tân lại phỗng tay trên, tự ý xin giấy phép và "mọi sự đã hoàn thành" chỉ xin các hội đoàn đóng góp để trả chi phí 7 ngàn euros! Nếu cộng đồng người Việt tị nạn Cộng Sản tại Bỉ không cương quyết, không buộc được Hội Chuyên Gia này ngưng việc làm "phỗng tay trên" như vậy, chắc chắn cái bia đó sẽ có lợi cho Việt Cộng.

- Chủ trương hiện tại của Việt Tân là đánh phá các Ban Ðại Diện Cộng Ðồng địa phương, để rồi chúng đưa người của chúng vào, nếu thành công thì coi như Việt Cộng đã chiếm được chính quyền nơi đó. Mấy chữ "Quốc Gia chống Cộng" chỉ còn là cái vỏ, "vàng vỏ đỏ lòng" như tại Houston, Portland. Hiện nay, Việt Tân đang núp sau lưng LÐCT do những đảng viên Việt Tân giựt dây để lũng đoạn cơ chế cộng đồng tại Bắc California với chiêu bài ủng hộ Minh Dương hạ bệ Madison.

Tuy nhiên, vì những tên Việt Tân hiện nay tại San Jose nói riêng, Bắc Cali nói chung đã bị đồng hương nhẵn mặt như Hoàng Thế Dân, Hoàng Hồ, v.v… coi như đã bị cháy, nên bọn này rút vào bóng tối, chúng dùng lại những "cựu cán bộ" có thành tích "chống Cộng" để thi hành quỷ kế mà điển hình là Huỳnh Lương Thiện.

Tuần báo Tiếng Dân từ khi góp mặt với giới truyền thông ở Bắc California, đã liên tiếp tố cáo trước dư luận đồng hương: Mặt Trận Hoàng Cơ Minh lúc trước và Việt Tân bây giờ là bàn tay nối dài của Việt Cộng. Ðến nay, chẳng đặng đừng, Tiếng Dân mới vạch thẳng mặt sự cấu kết giữa LÐCT, UBBN 2 và Việt Tân, đồng hương mới nhận rõ bộ mặt Việt Tân cũng là Vệt Cộng đang phá hoại cộng đồng. Nhiều đồng hương đã kêu điện thoại cho chúng tôi và trách "TẠI SAO CHUYỆN ÐỘNG TRỜI NHƯ VẬY MÀ ÐẾN NAY MỚI TIẾT LỘ!"

Cái thâm độc của Việt Tân hiện nay là bất cứ ai ở trong nước hoạt động vì tự do dân chủ mà bị Việt Cộng bắt, Việt Tân ở hải ngoại lập tức vu cho họ là "đảng viên Việt Tân" để Việt Cộng dễ bề tra tấn, lên án họ một cách vô tội vạ. Trong cuộc phỏng vấn của đài RFA do phóng viên Mặc Lâm phụ trách, chính Ðỗ Hoàng Ðiềm, Chủ tịch đảng Việt Tân đã không dấu diếm chủ trương và hành động độc ác của Việt Tân là gây khốn khó cho các cá nhân, những nhà đấu tranh vì tự do dân chủ ở trong nước và gia đình của họ.

Khi được phóng viên Mặc Lâm hỏi: Thưa ông trên trang Web chính thức của Việt Tân ghi rằng "Phải đợi đến sau khi đảng Việt Tân lên tiếng tố cáo trước công luận, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam mới thú nhận viêc bắt giữ ông Phạm Minh Hoàng vào ngày 9 tháng 9 vừa qua." Ông nghĩ sao nếu dư luận cho rằng đây là một hành động chứng tỏ Việt Tân đã trúng bẫy của Hà Nội?

Ðỗ Hoàng Ðiềm đã trả lời: "Dạ thưa chúng tôi quan niệm như thế này, Hà Nội đã thường xuyên bắt giữ rất nhiều người và không bao giờ xét xử hoặc đem ra trước công luận là một thủ đoạn rất nguy hiểm, cách làm việc đó của họ rất tai hại… thành ra chúng tôi phải làm sao cho những người này được dư luận quốc tế biết tới."

Quý độc giả và đồng hương nên nhớ, trước hết, dư luận đã biết rất sớm việc VC bắt giữ giáo sư Phạm Minh Hoàng, vì sau khi chồng bị bắt, bà Kiều Oanh đã báo động với truyền thông quốc ngoại, đâu phải đợi tới khi Web của Việt Tân lên tiếng??!!. Và qua lời của Ðỗ Hoàng Ðiềm ai cũng hiểu rằng: vì mục đích "làm sao cho những người này được dư luận quốc tế biết tới" mà Việt Tân "buộc lòng" phải nhận họ là đảng viên Việt Tân, dù họ có là đảng viên hay không. Ðây là cách gắp lửa bỏ tay người của đảng Việt Tân. Nói cách khác đây là cách toa rập với Việt Cộng để hại người quốc gia chống Cộng. Vì ai cũng biết, một khi là đảng viên của một đảng chính trị thì phải biết ai móc nối mình, hệ thống tổ chức của đảng, hoạt động với ai, tài liệu, tài chánh ra sao, đã làm gì v.v… Nếu một người không phải là đảng viên, dù có tra tấn đến chết, nạn nhân cũng không thể khai báo gì cả, vì họ hoàn toàn không biết. Như vậy, chẳng những Việt Tân giúp Việt Cộng có cớ để "hãm hại" các nhà đấu tranh, mà đây còn là cơ hội để dàn dựng một tổ chức Việt Tân được dư luận biết đến như một đảng chính trị đang hoạt động tại nước ngoài và có nhiều đảng viên hoạt động đấu tranh trong nước. Sau cùng, vì có sự xác nhận của Việt Tân nên sự can thiệp của quốc tế sẽ không hiệu quả bằng một người dân bình thường vì bị áp bức mà nói lên tiếng nói công đạo. Ðây là những gì mà Việt Tân giúp Việt Cộng trừng trị bất cứ ai chống đối chúng, vì "họ là đảng viên Việt Tân" một đảng mà VC gán cho là khủng bố, mặc dù họ có một hành vi "khủng bố" duy nhất là "khủng bố dổm", liệng chất nổ không có ngòi nổ.

Ðỗ Hoàng Ðiềm là một người bình thường, không chậm trí, không bị bệnh tâm thần mà còn là một người trí thức, được giữ chức vụ lớn nhất đảng, không thể nào lại có những suy nghĩ và hành động của người điên, hay chậm trí như vậy. Hơn nữa, đây là chủ trương của đảng Việt Tân, nghĩa là đã được "Trung Ương" thông qua.

Bà Kiều Oanh, vợ giáo sư Phạm Minh Hoàng đã "khôn ngoan" hơn cả đảng Việt Tân khi không chấp nhận chồng mình là đảng viên Việt Tân. Chính những người đã từng là học trò của giáo sư Phạm Minh Hoàng xác nhận giáo sư chẳng những khuyên sinh viên lo học trước đã, không nên gia nhập đảng phái kẻo vấp lầm nhất là đảng Việt Tân. Ðiều này cho thấy sự độc ác tàn bạo của Ðỗ Hoàng Ðiểm nói riêng và đảng Việt Tân nói chung. Việt Tân đã vu oan cho giáo sư Phạm Minh Hoàng, giúp cho Việt Cộng có cớ giam cầm giáo sư lâu ngày "vì nhu cầu điều tra". Và khi đưa ra tòa VC có cớ để buộc tội nặng nề nạn nhân. Trong lịch sử chính trị, chưa ai ngu dại đến nỗi khai ra tổ chức của mình. Và chính tổ chức mà người đó gia nhập cũng phủ nhận để đối phương không thể buộc tội nạn nhân. Thế mà Việt Tân chủ trương "cấp chứng minh thư" cho bất kỳ ai bị VC bắt. Việt Tân đã lên án sẵn để VC dễ bề trừng trị đối lập.

Ðỗ Hoàng Ðiềm cho rằng VC khi tuyên án không căn cứ vào người có đảng hay không, như nữ luật sư Lê Thị Công Nhân là phát ngôn viên của đảng Thăng Tiến bị 3 năm tù trong khi nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa không nằm trong đảng phái lại bị 6 năm tù, vì vậy "Sau khi cân nhắc như tôi vừa nói lúc nãy thì tôi quyết định phải công bố sự liên hệ của 4 người này đối với đảng Việt Tân để chúng tôi có thể huy động sự đấu tranh một cách hữu hiệu hơn". Ðây lại là một thứ ngụy biện man trá và dại dột nếu cho rằng Việt Tân là đảng chống Cộng. Không thể lấy 2 trường hợp cá biệt để "vu vạ" cho những nạn nhân của Việt Cộng là đảng viên của mình. Ðộc ác hơn nữa là dành công lao đấu tranh của họ để đảng mình "có thành tích". Việt Tân đã chủ trương hợp tác và xây dựng với Việt Cộng (nếu VC cho phép) và bảo đảm sự tồn tại của Việt Cộng trên đất nước cho đến năm 2025, như vậy thì Việt Tân chiếm đoạt "thành tích" đấu tranh của người khác làm gì? Ðỗ Hoàng Ðiềm đã dấu đầu lòi đuôi, lạy ông con ở bụi này. Cho dù có đấu tranh thực sự đi nữa, cũng không nên lấy công lao của người khác làm thành tích của mình, nếu là người có liêm sỉ, có tư cách. Tiếc thay, Mặt Trận Hoàng Cơ Minh ngày trước, Việt Tân hôm nay, tập trung toàn những kẻ không tư cách và không liêm sỉ, vì nếu có tư cách và liêm sỉ họ không để lãnh tụ của họ chết 14 năm mới cho khai tử. Tàn bạo như vậy thì còn đâu là tư cách, còn đâu là liêm sỉ nữa?

Vấn đề dân oan là một vấn đề thuần túy xã hội, nguyên nhân là do cán bộ Việt Cộng tham nhũng, lạm dụng chức quyền để ăn cướp nhà đất ruộng vườn của đồng bào khiến họ phải đứng lên đấu tranh, nay Ðỗ Hoàng Ðiềm chứng nhận ông Nguyễn Thành Tâm, một "dân oan" là đảng viên Việt Tân, là chụp cái mũ chính trị cho dân oan để Việt Cộng thẳng tay đàn áp họ, vì họ muốn lật đổ chế độ chứ không phải vì bị ăn cướp mà khiếu nại. Nếu Ðỗ Hoàng Ðiềm điên thì có thể giải thích được, đằng này Ðỗ Hoàng Ðiềm và các lãnh tụ Việt Tân không điên, do đó, chỉ có thể giải thích là Việt Tân về hùa với VC để đàn áp dân chúng Việt Nam, để chính trị hóa vấn đề dân oan hay vấn đề VC ăn cướp của dân.

Trong câu hỏi chót, phóng viên Mặc Lâm đã bác bỏ luận điệu ngoan cố của Ðỗ Hoàng Ðiềm, vì những đảng mà Ðỗ Hoàng Ðiềm vừa nêu đều là những đảng đang hoạt động ở trong nước, tôn chỉ mục đích rõ ràng là bất bạo động. Còn đảng Việt Tân thì xuất phát từ hải ngoại, lại đã tạo được "thành tích khủng bố cuội", liệng chất nổ ở ngoài cổng Tòa Lãnh Sự Việt Cộng mà lại không có ngòi nổ. Không ngờ, đây chính là dụng ý của Việt Tân, để Việt Cộng dựa vào đó lên án "cuội" Việt Tân là khủng bố, để những ai Việt Tân xác nhận là đảng viên của mình đều là những kẻ khủng bố. Khủng bố là một cái gì đáng ghê tởm, đáng lên án nặng nề. Ðó là dụng ý của 2 anh em Việt Tân và Việt Cộng để đàn áp dã man những ai đấu tranh chống lại Việt Cộng, dù họ không phải là kẻ khủng bố, dù họ không phải là đảng viên Việt Tân.

Một người tầm cỡ như Ðỗ Hoàng Ðiềm tất phải hiểu biết rằng trong khi bị địch bắt, họ có quyền tự do quyết định lời khai của họ, tùy theo trường hợp, hoàn cảnh và sự suy luận cá nhân. Ðằng này, Việt Tân tròng vào đầu họ một bản cáo trạng nặng nề là đảng viên Việt Tân, một đảng khủng bố. Việt Tân nói chung, Ðỗ Hoàng Ðiềm nói riêng phải bị luật pháp Hoa Kỳ trừng trị một khi các nạn nhân của chúng khiếu kiện.

Qua những thành tích của Việt Tân trong quá khứ cũng như những gì mà Việt Tân vu vạ cho các nhà đấu tranh ở trong nước, phải chăng chúng ta có thể kết luận Việt Tân chính là Việt Cộng??. Hơn bao giờ hết, đồng hương tị nạn Cộng Sản, nhất là đồng hương Nam Bắc California xin hãy đề cao cảnh giác,  tránh những cạm bẫy của Việt Tân cũng là cạm bẫy của Việt Cộng.

 

Lê Văn Ấn



--

Người Quốc Gia là những người đặt Tổ Quốc lên bản vị tối cao, tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi vật, kể cả tôn giáo, đảng phái, và cả chính bản thân mình.


“Thư để lại” của một quan tham sắp bị tử hình ở Trung Quốc

"Thư để lại" của một quan tham sắp bị tử hình ở Trung Quốc


 
Văn Cường nguyên Giám đốc Sở Tư pháp
 
 

Dương Danh Dy giới thiệu

Văn Cường nguyên Giám đốc Sở Tư pháp, nguyên Phó Giám đốc Sở Công an thành phố Trùng Khánh do phạm tội tham ô( nhận hối lộ hơn 12 triệu NDT, không thuyết minh được số tài sản trị giá hơn 10 triệu NDT..) hủ hóa, bao che cho bọn mafia.. đã bị toà án thành phố này tuyên án tử hình ngày 7/7/2010. Trước khi chết hắn đã để lại bức thư, xin lược dịch giới thiệu.

"Ta sống không nổi mấy ngày nữa đâu. Ta không ngờ lại bị phán tử hình, nhưng đã đến bước đó thì kháng cáo lên trên cũng chẳng có kết quả gì. Ta đây, cả cuộc đời làm công an, đã xử rất nhiều vụ án lớn, đã giết rất nhiều người, trước đây đã từng lo rằng sẽ có một ngày sẽ chết trong tay người nhà một số kẻ bị mình xử tử hình, không ngờ cuối cùng lại bị chết trong tay người của mình…Thế nhưng, ta đã nghĩ ra, những sự việc mà ta tham dự và biết được quá nhiều, nếu ta không chết sẽ có rất nhiều kẻ ăn không ngon ngủ không yên. Không giết ta, hậu hoạn lớn vô cùng, ta chết sẽ có lợi cho bọn chúng…Vì vậy có mấy câu muốn nói rõ trước khi đi xa.

 


Văn Cường (người ngồi bên trái) trả lời phỏng vấn trước giờ thi hành án tử hình hôm 7/7.

Nói ta tham ô bao nhiêu tiền, chơi bao nhiêu con gái. Ta không phủ nhận điều đó.Nhưng điều ta muốn nói là, điều đó đáng trách ta nhưng cũng không đáng trách ta, tất nhiên trách nhiệm của ta là lớn hơn. Bất kể là ai nếu đặt vào vị trí của ta đều sẽ tham ô nhiều như vậy, chơi gái nhiều như vậy, thậm chí còn nhiều hơn. Có một số nữ học sinh, ta không chơi thì người khác cũng sẽ chơi. Nói Văn Cường ta đây cưỡng hiếp, ta mà lại phải cưỡng hiếp à?…Ai chẳng biết cán bộ hiện nay nếu không tham ô, không háo sắc thì ai dám tin, dám trọng dụng anh? Dù anh làm việc có tốt đi nữa cũng chẳng có ích gì! Loại cán bộ giống như ta, trong cả nước nếu không nói là mấy triệu thì chí ít cũng phải tới mấy chục vạn người. Chỉ bêu xấu rồi giết một mình Văn Cường, thì giải quyết được cái gì?

Điều ta muốn nói nữa là, con đường ta đi từ một anh cảnh sát nhỏ bé tại huyện Ba rồi lên tới chức Phó Giám đốc Sở Công an một thành phố trực thuộc trung ương, không phải là chỉ bằng con đường tham ô… Đối với ta trước tiên là công việc sau mới đến tham ô… Ai cho ta cái quyền muốn làm gì thì làm ở Trùng Khánh? Nhiều người biết rõ một số việc ta đã làm nhưng lại giả bộ là không biết? Đã không muốn để ta sống thì ta sẽ nói hết mọi điều ra: ta tham không chỉ có số tiền đến thế! Vậy số còn lại đi đâu? Tất nhiên là đến nhà người ta, có việc ta nhờ người làm, có một số việc tự ta làm. Nhờ người khác làm không có tiền có được không? Những người lấy tiền của ta cũng như những người đưa tiền cho ta hiện nay đang hướng dẫn quần chúng tham quan những trưng bầy chứng tích tham ô của ta. Ta không phủ nhận tính chân thực của các chứng tích đó, nhưng nếu các người tới nhà những kẻ đó xem xét sẽ thấy chút quà bẩn thỉu mà ta nhận thật đáng thương.

Văn Cường ta cũng là người có học… Trước đây ở Trung Quốc, đã có rất nhiều người vỗ tay khen ngợi việc chặt đầu bọn tham nhũng. Thế nhưng sau những cái vỗ tay khoái chí đó mọi việc vẫn như cũ. Mấy trăm năm qua Trung Quốc có thay đổi không? Ta thấy chẳng thay đổi gì cả. Giết ta chẳng qua là bịt được mồm một mình ta, nhưng liệu có bịt được nguồn gốc hủ bại không? Hôm qua trên đường phố Trùng Khánh có rất nhiều người đốt pháo. Ta không biết ba năm sau liệu bọn họ lại có phải đốt pháo nữa hay không? Sợ rằng đến lúc đó những người đã bán đứng ta sẽ lại ca ngợi ta và dân chúng không rõ chân tướng lúc này sẽ thấy Văn Cường cũng có chỗ tốt đấy chứ. Khi ta làm Phó Giám đốc công an Trùng Khánh tỷ lệ phạm tội có cao nhưng so với mấy thành phố lớn khác, Trùng Khánh tốt hơn nhiều

… Biến ta thành người như thế này là do chính xã hội, chính chế độ này. Ta nói như vậy không phải là muốn đẩy hết trách nhiệm cho người khác. Nếu như năm đó ta không rời huyện Ba, yên tâm làm một anh cảnh sát bình thường ở đó thì hôm nay ta không phải như thế này.Tham công danh lợi lộc là sai lầm lớn nhất đời ta. Sau khi ta chết con cháu không lấy họ Văn nữa mà đổi thành họ khác, và con cháu các đời từ nay trở đi đừng theo nghiệp chính quyền, đừng làm quan, hãy xa lánh công danh lợi lộc.

Bình thường, bình yên mới là phúc."



--

Người Quốc Gia là những người đặt Tổ Quốc lên bản vị tối cao, tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi vật, kể cả tôn giáo, đảng phái, và cả chính bản thân mình.


Những Người Trẻ Nhật Bản Tìm Kiếm Công Việc Thứ Hai Và Thứ Ba


Kiến An

(phóng tác theo bài viết "Young Japanese Seek Second, and Third, Jobs" của GEAROID REIDY.)

LGT: Nhật là nước được ca tụng là thành công và phồn thịnh nhanh chóng sau thế chiến thứ hai. Để đạt được như vậy người ta biết rằng người Nhật đã phải làm việc rất vất vả. Đã có những trường hợp người đi làm khỏe mạnh không có triệu chứng đau ốm gì về nhà chết bất tử và khám nghiệm không tìm ra lý do, cho nên các bác sĩ đều cho rằng là vì làm việc kiệt sức. Ngày nay kinh tế Nhật trì trệ, việc làm khó khăn, đã khiến nhiều người trẻ Nhật kiếm thêm nghề thứ hai hay thứ ba để làm. Bài viết sau đây của Gearoid Reidy trên báo New York Times có vẻ như khuyến khích hiện tượng làm thêm này, và coi đó là một lối thoát cho người Nhật. TTVN xin giới thiệu với quý độc giả bài viết phóng tác theo Gearoi Reidy của Kiến An để đọc cho biết và suy nghĩ về cuộc sống mà có người nghĩ rằng tương tự như hình ảnh con chuột bạch chạy trong lồng cầu.
--------------


Từ 9 giờ sáng tới 5 giờ chiều, Hiroko Yokogawa làm việc thư ký kế toán cho một công ty nhỏ thiết kế kiến trúc. Nhưng khi khi ca làm của cô ta kết thúc, việc trong ngày của cô vẫn chưa chấm dứt. Về nhà, cô phổ biến hàng hóa trên trang mạng, hay gặp một thân chủ trong vai trò cố vấn về đời sống và việc làm. Một phần ba tổng số lợi tức của cô là do những việc làm thêm như vậy, trung bình mất chừng 5 giờ mỗi ngày cuối tuần và 3 giờ vào ngày thường.  


"Không phải là tôi không thích việc làm chính của tôi, nhưng tôi muốn có một nguồn lợi tức ổn định mà không phải lệ thuộc hoàn toàn vào công ty," cô Yokogawa cho biết. "Tôi khởi đầu làm thêm để có thêm tiền mua sắm thời trang, đi chơi hay để dành. Nhưng bây giờ thì tôi cố gắng làm những việc hữu ích cho tương lai."

Trong nhiều thập niên, con đường chính đi vào nghề nghiệp tại Nhật Bản là sau khi tốt nghiệp tham gia một công ty và ở đó cho đến khi về hưu – nghĩa là một công việc làm đến trọn đời. Nhưng với mức lương giảm 12% trong hơn một thập kỷ, công việc làm bấp bênh hiện nay đã khiến những người trẻ Nhật Bản, đa số là độc thân đã tìm cách gia tăng lợi tức của họ bằng cách làm thêm công việc thứ hai hay ngay cả công việc thứ ba.

Một số người đi phát truyền đơn quảng cáo hay làm việc trong những tiệm tạp hoá. Có người bán ngoại tệ hay bán đấu giá trên mạng. Một thăm dò của công ty Ishare chuyên nghiên cứu thị trường điện tử cho thấy rằng 17% người đi làm trong khoảng tuổi 20 tới 50 có một công việc làm thứ hai.

Mặc dầu thời gian làm việc dài, đứng hàng thứ 8 về dài nhất trên thế giới, gần 50% các công nhân trả lời trong một cuộc thăm dò năm ngoái của Viện Chính Sách Lao động và Huấn Luyện thuộc chính phủ tỏ ý muốn có việc làm thứ hai. Gần 90% được hỏi nói rằng do lý do chính là muốn có thêm tiền để chi tiêu.

Ông Toshihiro Nagahama, trưởng ban kinh tế của học viện Nghiên Cứu Đời Sống Dai-Ichi tại Tokyo cho biết nguyên nhân chính khiến những người trẻ tìm cách kiếm thêm tiền ngắn hạn là vì điều kiện kinh tế và lợi tức khó khăn, nhưng đó cũng là cách để đề phòng mất việc.

Tỷ lệ thất nghiệp 5.2% vào tháng 7 tại Nhật Bản tuy là thấp so với tỷ lệ trung bình trên thế giới, nhưng đã tiến gần đến điểm cao kỷ lục ở Nhật. Kinh tế tiếp tục bị đình trệ, kéo thấp xuống thêm bên tuổi tác già và dân số giảm, lạm phát và đồng yen mạnh, đã ngăn cản sự xuất cảng.

Căn cứ theo con số từ Sở Thuế Quốc Gia, lương trung bình hàng năm cho những nhân viên người Nhật trong tuổi 20 đã rơi xuống là 2.48 triệu yen trong năm 2008, từ 2.83 triệu yen trong năm 1977. Tính theo hối xuất hiện nay, đó là một sự sụt giảm từ $33,635 đô la xuống mức $29,470 đô la Mỹ.

Dữ kiện phổ biến trong tuần vừa qua bởi Bộ Sức Khỏe, Lao động và Phúc Lợi cho thấy rằng hầu hết 56% công nhân trong tuổi từ 15 đến 34 đã cần đến một nguồn lợi tức khác để trang trải những chi tiêu trong cuộc sống. Những nguồn lợi tức thêm đã được quan tâm nhiều hơn kể từ khi có sự suy thoái trên toàn cầu, với việc nhiều công ty đã bỏ hẳn việc cho làm thêm giờ phụ trội nhằm tiết kiệm.

"Không có đồng lương phụ trội, ngày càng nhiều người muốn có thêm một việc gì đó để làm," Kirito Nakano, một người từng làm việc phụ trội và đã dùng kinh nghiệm của anh để đi vào nghề nghiệp đầu tư và viết sách.

Nakano, 28 tuổi, đầu tiên đi theo con đường nghề nghiệp như bài bản, tham gia một công ty lớn như một kỹ sư về Web sau khi tốt nghiệp đại học vào năm 2004. Nhận thấy rằng đồng lương của anh ta không có thể trang trải cho những tiêu xài xa xỉ như những cuộc du lịch ngoại quốc, anh ta bắt đầu thử dùng giờ rảnh tham gia các chương trình quảng cáo để kiếm tiến bằng cách giới thiệu khách cho các công ty.

Ba năm sau, công việc phụ này kiếm ra tiền nhiều hơn là việc làm chính thức, anh đã nghỉ việc chính để ra làm công ty quảng cáo riêng mà bây giờ anh đang bỏ hết thì giờ vào. Vào tháng 8, anh xuất bản một cuốn sách thứ hai giải thích bằng cách nào để làm ra 100,000 yen trong một tháng bên ngoài việc văn phòng.

"Kinh tế Nhật Bản không chỉ đang đình trệ mà nó đang trong tình trạng thụt lùi," anh ta nói. "Khi mọi người tin rằng tương lai sáng sủa hơn hiện tại, thì họ vui sướng. Nhưng nếu họ nghĩ rằng tương lai không có hy vọng, thì họ trở nên buồn thảm. Để giải quyết nỗi lo này mà mọi người đang cố gắng tìm công việc thêm."

Hệ thống làm việc trọn đời của Nhật đã tan vỡ với sự nổ tung của nền kinh tế bong bóng vào năm 1991, và những người làm việc như cô Yokogawa đã phải đối đầu với thực tế mới. Cô ấy đã làm việc với một số công ty khác nhau, trả lời điện thoại hay bán những dây nơ đeo cổ. Tuy vậy cô nói rằng những thay đổi đó đã thật là đau đớn cho thế hệ của cô ta.

"Những người như tôi, trong lứa tuổi 30s, đã đón nhận thay đổi thật khó khăn," cô nói. "Những người trong lứa tuổi 20s lớn lên đã quen thuộc với nền kinh tế nghèo nàn, còn chúng tôi đã lớn lên trong sự tin tưởng rằng nếu chúng tôi làm việc chăm chỉ cho một công ty lớn, chúng tôi sẽ an toàn trọn đời."

Yoshihiko Noda, Bộ trưởng Tài Chánh, trong tháng vừa qua đã phát biểu rằng đã đến lúc Nhật Bản phải có những biện pháp cho phép "những người trẻ có được những giấc mơ và việc làm."

Muốn thế thì Nhật phải cần giúp đỡ khuyến khích những người có đầu óc xông xáo kinh doanh, có vẻ như hiếm tại Nhật. Nhưng những người với công việc làm phụ trội có thể đưa ra một tia hy vọng.

"Tỷ số công ty khởi đầu tại Nhật là thấp, nhưng nếu tính những người đang làm việc phụ trội, thì con số bắt đầu trông tốt hơn," Shinsuke Ogino, một nhà phân tích về thương mại và có sách xuất bản về những việc làm phụ trội và hai nghề nghiệp, nhận định như vậy.

"Những người làm phụ trội là loại người không thỏa mãn với công việc họ đang làm để lãnh lương và không còn nghi ngờ rằng sự gia tăng những người với loại tinh thần kinh doanh này là một điều tốt," ông ta nói.

Dành quá nhiều thời gian làm việc có cái giá của nó, nhất là mất thời giờ rảnh rỗi hưởng thụ.

"Làm thêm công việc chỉ vì tiền sẽ dẫn đến sự kiệt sức," cô Yokogawa nói. "Nhưng nếu một người làm một điều gì mà họ ưa thích, thì áp lực của công việc trở nên một nguồn của năng lực." Cô đã kết hợp công việc phụ trội của cô ta với thời gian rảnh rỗi đi xem những tiệm nổi tiếng và hợp thời trang, việc này tạo cảm hứng cho những điều cô ta đưa lên mạng.

"Đối với những người làm việc kiểu này, công việc làm thêm trở thành thú tiêu khiển, là phương tiện để giao tiếp với những bạn mới," ông Ogino nói. "Tôi nghĩ một số người dùng tiền và những liên hệ họ có được trong những công việc phụ trội để có những nguồn vui."

Cô Yokogawa hy vọng dùng kinh nghiệm chạy từ việc này sang việc kia để giúp những người khác tìm việc và tìm cách sống thích hợp. Mỗi lần tư vấn cho một thân chủ từ trên mạng hay do bạn bè giới thiệu, cô lấy khoảng 3,000 yen. Bắt đầu sang năm, cô dự định gia tăng thời gian làm cố vấn, với hy vọng biến nó trở thành một nghề nghiệp.

Nhưng điều này không có nghĩa là cô sẽ nghỉ việc làm ban ngày. "Tôi không nói là tôi muốn rời bỏ công việc chính của mình, mà đúng ra, tôi thích có vài công việc cùng một lúc," cô nói.



--

Người Quốc Gia là những người đặt Tổ Quốc lên bản vị tối cao, tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi vật, kể cả tôn giáo, đảng phái, và cả chính bản thân mình.


MỸ ỦNG HỘ ASEAN TRONG VAI TRÒ TRUNG TÂM

 

MỸ ỦNG HỘ ASEAN TRONG VAI TRÒ TRUNG TÂM

VÀ CHỦ ĐẠO CÁC DIỄN ĐÀN HỢP TÁC KHU VỰC

 

LÝ ĐẠI NGUYÊN


Trong cuộc họp Thượng Đỉnh lần thứ 2 giữa Hoakỳ và ASEAN vào chiều ngày 24/09/2010 tại New York, tổng thống Mỹ, Barack Obama long trọng tuyên bố: "Chúng tôi cần hợp tác với các nước châu Á để đáp ứng các thách thức của tình hình kinh tế ngày càng tăng trưởng của chúng tôi, ngăn ngừa việc phổ biến vũ khí hạt nhân và giải quyết vấn đề khí hậu biến đổi. Với tư cách là tổng thống, tôi muốn nói rõ rằng,  Hoakỳ có ý định đóng vai trò quan trọng tại châu Á. Do đó chúng tôi đã tăng cường các liên minh cũ, chúng tôi hợp tác sâu đậm với các đối tác mới, như chúng tôi đang làm với Trungquốc, và chúng tôi đã giao tiếp trở lại với các tổ chức khu vực, kể cả ASEAN".   Tổng thống Obama khẳng định: "Hoakỳ mong muốn tăng cường  quan hệ toàn diện với ASEAN, ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN tại khu vực và các diễn đàn hợp tác khu vực do ASEAN nắm vai trò chủ đạo."

 

ASEAN đánh giá cao tuyên bố của Mỹ sẵn sàng tham vấn với ASEAN về việc hướng tới tham gia Nghị Định Thư Hiệp Ước Đông Nam Á phi vũ khí hạt nhân; hoan nghênh Mỹ ủng hộ các hoạt động của Ủy Ban Liên Chính Phủ ASEAN về Nhân Quyền và Ủy Ban ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền phụ nữ và trẻ em. Phát biểu tại Hội Nghị ở cương vị chủ tịch ASEAN, đồng chủ tọa Hội Nghị với tổng thống Mỹ, Nguyễn Minh Triết nói: "Việtnam và ASEAN luôn luôn ủng hộ thắt chặt thêm quan hệ giữa ASEAN và Hoakỳ trên cơ sở song phương và đa phương. Chúng tôi muốn nâng quan hệ lên một tầm mới, tiến tới chỗ toàn diện hơn và có thực chất hơn cho hoà bình, ổn định và phát triển khu vực chúng tôi." Nguyễn Minh Triết đề nghị: "Hai bên cần đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác theo hướng toàn diện và thực chất hơn trên cơ sở cùng có lợi trên các lãnh vực từ chính trị - an ninh, kể cả an ninh phi truyền thống, đến kinh tế - thương mại và văn hóa – xã hội, trong đó hợp tác kinh tế - thương mại cần được xác định là một trong những lĩnh vực ưu tiên".

 

Điều cần ghi nhận ở đây là, Nguyễn Minh Triết xem như đã vượt mặt Trungcộng để thể hiện khuynh hướng liên kết toàn diện giữa ASEAN với Hoakỳ, nhất là về mặt chính trị - an ninh, kể cả an ninh phi truyền thống, mà trong Bản Thông Cáo Chung  Mỹ - ASEAN, vì không muốn làm cho Trungcộng nổi khùng, đã không đề cập tới an ninh biển Đông, mà chỉ khái quát nói tới "ý tưởng nâng cao quan hệ đối tác tới một tầm chiến lược và coi đây là là lãnh vực tập trung ưu tiên của ASEAN và Mỹ". Có lẽ chính vì để cho đảng Việtcộng dễ chạy tội, và bản thân không bị quan thầy Trungcộng đe dọa hạ bệ, nên trước khi bước vào hội nghị, Nguyễn Minh Triết đã hé lộ cho báo chí quốc tế biết, sẽ không giữ chức vụ gì nữa sau Đại Hội Đảng XI này. Quả thật Việtcộng đã bị lạnh cẳng, mới cho  Nguyễn Chí Vịnh vội vàng tuyên bố trong cuộc phỏng vấn bởi báo Akahata của đảng Cộngsản Nhậtbản rằng: "Chúng tôi khẳng định là Việtnam không hợp tác quốc phòng với Mỹ hay bất cứ nước nào để chống Trungquốc, và Việtnam không có ý định chống Trungquốc". "Tuy Việtnam và Trungquốc có tranh chấp trên biển Đông, nhưng chúng tôi chủ trương giải quyết vấn đề này bằng biện pháp hòa bình trên cơ sơ luật pháp quốc tế".

 

Ngược lại, tổng thống Philippines, Benigno Aquino III, một ngày trước cuộc họp ASEAN và Hoakỳ, đã tuyên bố: "Asean sẽ hợp thành một khối, nếu Trungquốc dùng sức mạnh trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông". Ông thêm rằng: "Hy vọng chúng tôi sẽ không phải  nghe  cụm từ 'Biển Nam Trung Hoa' với hàm ý là biển của Trungquốc".  Trong khi đó Ôn Gia Bảo thủ tướng Trungcộng tuyên bố tại Liên Hiệp Quốc rằng: "Trungquốc không đe dọa nước khác, nhưng sẽ không bao giờ nhượng bộ trong tranh chấp về các chủ đề có tính quan tâm quốc gia". Vì Trungcộng đã dùng sức mạnh quân sự cưỡng chiếm Hoàngsa và một phần Trườngsa của Việtnam, nên mới nhận là  vùng  'Biển Nam Trung Hoa' và cho đó là "một trong những quan tâm chủ đạo về chủ quyền của Trungquốc bên cạnh Tâytạng và Đàiloan". Rồi tiếp tục dùng sức mạnh quân sự quyết giữ lấy trên 80% diện tích vùng Biển Đông Nam Á này làm của riêng mình. Vậy kẻ chủ chiến trong vùng châu Á, Thái Bình Dương hiện nay chính là Trungcộng chứ không phải ai khác.

 

Dù cho Việtnam có nhân nhượng Trungcộng đến mấy, Việtcộng có cúc cung vâng lời Trungcộng đến đâu, mà ngư dân Việtnam vô tình đi lạc vào vùng Trungcộng nghiêm cấm, vốn trước kia thuộc lãnh hải Việtnam thì  Trungcộng cũng đuổi, đánh, bắt giết. Như vậy ổn định, hòa bình trên Biển Đông không thể có. Chính vì thế trong Thông Cáo Chung Mỹ-Asean ở Điều 18 đã ghi rõ: "Chúng tôi tái khẳng định tầm quan trọng của ổn định và hoà bình khu vực, an ninh hàng hải, không cản trở thương mại và tự do hàng hải theo những quy định liên quan được nhất trí của luật pháp quốc tế, gồm Công Ước LHQ về Luật Biển – UNCLOS – và những điều luật hàng hải quốc tế khác, đồng thời giải quyết hòa bình các tranh chấp".

 

Rõ ràng là việc Hoakỳ toàn diện hợp tác về chiến lược với Asean để đa phương giải quyết hòa bình các tranh chấp Biển Đông, mới đủ sức làm cho Trungcộng không còn hung hăng bành trướng sức mạnh quân sự ra toàn vùng. Nhờ đó chiến tranh cục bộ ở nơi đây mới không thể xẩy ra. Nếu giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền trên cơ sở 'song phương' kiểu Trungcộng thì: Một là Trungcộng sẽ nuốt trửng như đối với Việtnam. Hai là sẽ có đụng độ vũ lực như đối với Philippines, Malaysia… Trước đây trong chiến tranh lạnh, khi một nước đi theo thế giới cộng sản là chống lại với Mỹ, hoăc ngược lại. Nhưng trong thời đại Toàn Cầu Hóa này, thì các nước dù còn đối nghịch với nhau về mặt nào đó. Nhưng họ vẫn là đối tác, hợp tác, liên hệ với nhau về nhiều mặt. Nhất là Hoakỳ và Trungcộng hiện nay. Đừng nói là về sức mạnh quân sự Trungcộng chưa phải là đối thủ ngang tay với Mỹ, mà về mặt chính trị, kinh tế, tài chánh, kỹ thuật… 2 nước cũng còn phải nương nhau đề tồn tại, phát triển. Nhất là nền kinh tế của Trungquốc chưa phải là nền Kinh Tế Quốc Dân Tự Chủ, vẫn phải dựa vào vốn đầu tư, khoa học kỹ thuật, thị trường tiêu thụ quốc tế, mà Mỹ là chính. Thế nên khi Mỹ đã dứt khoát giữ vai trò lãnh đạo tại Á châu, thì Trungcộng buộc phải lùi bước. Việc Việtnam và Khối Asean chủ động hội nhập chiến lược toàn cầu của Mỹ trong lúc này là con đường  duy nhất giải quyết ổn định, hoà bình và phát triển của toàn vùng. Còn về lâu về dài thì phải thực sự Dân Chủ Hóa Chế Độ ở mỗi nước, thì ASEAN mới thành một Khối Thịnh Vượng làm cùn nhụt tham vọng bành trướng của Bắckinh và đưa nước Trung Hoa vào tiến trình Dân Chủ Hoá Toàn Cầu để cho nhân loại hưởng cảnh Đại Thái Hoà.



LÝ ĐẠI NGUYÊN

Little Saigon ngày 28/09/2010



--

Người Quốc Gia là những người đặt Tổ Quốc lên bản vị tối cao, tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi vật, kể cả tôn giáo, đảng phái, và cả chính bản thân mình.


Bản Văn "Mật" của Cọng Sản Việt Nam tuyên truyền...

Bản Văn "Mật" của Cọng Sản Việt Nam
tuyên truyền và giáo dục cán bộ đảng
những phương pháp phá hoại tôn giáo

 

Chúng tôi xin gửi đến tất cả quý vị đồng hương Việt Nam trên khắp thế giới, Bản Văn "Mật" đã bị lọt ra bên ngoài, của Cọng Sản Việt Nam với đề tài "Ðịch lợi dụng tôn giáo".   Với giọng điệu tuyên truyền và vu khống cho các hoạt động bảo vệ nhân quyền và bác ái của các tôn giáo, Cọng sản Việt Nam thường xếp giáo hội vào loại "địch lợi dụng tôn giáo". Cùng với chiêu bài cố ý tiêu diệt tôn giáo, nhà cầm quyền cọng sản Việt Nam đã bắt bỏ tù biết bao nhiêu linh mục tu sĩ và giám mục Việt Nam. Nhiều người đã chịu cảnh thảm thương và đã phải chết trong lao tù cọng sản.    Với những sự thật hiển nhiên xảy ra hằng ngày trên đất nước Việt Nam bây giờ, ai cũng nhìn thấy rõ, Ðảng Cọng Sản Việt Nam đã đưa đất nước Việt Nam trở thành một nước nghèo nhất trên thế giới. Ðã bắt con dân Việt Nam phải đi làm nô lệ cho các nước láng giềng để làm giàu cho đảng và cán bộ. Và cũng vì những hậu quả nghèo đói do Cọng Sản Việt Nam gây nên đã làm cho biết bao nhiêu cô gái Việt phải tự chấp nhận bán thân làm vợ cho các người nước ngoài, nhiều lúc bị rơi vào những ổ mãi dâm của những bọn du đảng... Có thể nói được, trong lịch sử Việt Nam, chưa có thời kỳ nào, Việt Nam bị rơi vào một hoàn cảnh thảm thương như vậy. Tất cả những sự kiện xảy ra, rồi lịch sử sẽ lên án. Cả chúng ta nữa, nếu chúng ta không bắt tay ngay để cứu dân cứu nước, tội thờ ơ này của chúng ta, rồi lịch sử cũng sẽ không tha thứ cho chúng ta đâu. Biết người biết mình trăm trận trăm thắng, chúng ta đọc tài liệu này để biết rõ nhiều hơn chính sách đàn áp tôn giáo của Cọng Sản Việt Nam, và chúng ta cũng có thể tìm ra được một đường lối lý tưởng hơn để đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi những cảnh bất công và đầy đau thương này:
 


 BAN DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO TỈNH LAO CAI "MẬT" VẤN ÐỀ ÐỊCH LỠI DỤNG TÔN GIÁO
(Tài liệu dùng cho cán bộ làm công tác tôn giáo - Lưu hành nội bộ)
 

  I. VÌ SAO ÐỊCH CHỌN TÔN GIÁO LÀM ÐỐI TƯỠNG LỠI DỤNG.

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội ra đời từ thủa xa xưa trong lịch sử nhân loại và còn tồn tại lâu dài. Trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, các thế lực thống trị phản động luôn sử dụng tôn giáo nhằm thiết lập, duy trì và thực hiện quyền thống trị của chúng đối với nhân dân lao động.
 Lịch sử đấu tranh cách mạng giữa những thời kỳ chống Pháp chống Mỹ và chống ngoại bang của dân tộc Việt Nam cũng cho thấy: kẻ thù luôn luôn tìm mọi cách lợi dụng vấn đề tôn giáo để thực hiện ý đồ chống phá Cách mạng của nhân dân ta.  Vì sao địch lại chọn tôn giáo làm đối tượng lợi dụng? Ðiều đó có thể cắt nghĩa bằng những lý do sau đây:

1) Do sự khác nhau về quan điểm triết học (duy vật - duy tâm) giữa những người theo chủ nghĩa Mác và người theo tôn giáo. Ðây là tiền đề của sự khác nhau về thế giới quan, sự khó thống nhất trong cách nhìn nhận đánh giá một sự việc, một vấn đề và do đó dễ phát sinh mâu thuẫn. Về bản chất đây là mâu thuẫn nội bộ. Song khi bị địch kích động đúng lúc đúng chỗ, thì mâu thuẫn này có thể phát triển, chuyển hóa thành mâu thuẫn đối kháng.


 2) Trên thế giới số người theo tôn giáo chiếm 80% tổng dân số, ở Việt Nam có khoảng 30% dân số theo các tôn giáo. Rõ ràng đây là một lực lượng quần chúng đáng kể. Tập hợp những người cùng tín ngưỡng tôn giáo lại có tính liên kết khá chặt chẽ; họ bị ràng buộc bởi giáo lý, giáo luật và chịu sự điều khiển của bộ máy tổ chức giáo hội, vì thế nó có thể trở thành một "lực lượng xã hội" không thể xem thường. (Lực lượng này có khả năng hỗ trợ hoặc ngăn cản chính quyền của một giai cấp). Do vậy đế quốc và bọn phản động rất coi trọng việc sử dụng tôn giáo nhằm chống lại các phong trào cách mạng.

3) Do xu hướng muốn gắn "thần quyền" với "thế quyền" của các giáo hội.
Hầu hết các tôn giáo đều có xu hướng thế tục hóa, tham vọng gắn "thần quyền" với "thế quyền", gắn "giáo quyền với chính trị". Xu hướng lợi dụng lẫn nhau giữa các giáo hội và các thế lực chính trị, kinh tế là là xu hướng hiện thực, thời nào cũng có. Nói cách khác, việc các thế lực thù địch thường chọn tôn giáo làm đối tượng lợi dụng còn xuất phát từ "nhu cầu" của một số người đứng đầu trong các tôn giáo.

4) Niềm tin tôn giáo có đặc trưng là "không cần sự kiểm chứng", nên người theo tôn giáo có thể rơi vào trạng thái cuồng tín, cực đoan trong suy nghĩ và hành động, nhất là khi họ đã nằm trong vòng tay điều khiển của các thế lực chính trị phản động.
 Những tín đồ cuồng tín sẵn sàng "tử vì đạo", thậm chí có người còn đi đến chỗ phủ nhận cả quốc gia, dân tộc là những phạm trù đang được mọi người tôn trọng, giữ gìn.

5) Ngày nay phần lớn các tôn giáo đều có quan hệ quốc tế. Ðây là một điều kiện thuận lợi cho các thế lực chính trị phản động ở nước ngoài thực hiện ý đồ can thiệp vào công việc nội bộ của các nước ở tại, thông qua con đường lợi dụng các giáo hội trong nước.


6) Vấn đề tôn giáo nhìn chung là vấn đề "tế nhị và phức tạp", nó tế nhị và phức tạp ở chỗ: Vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng là vấn đề thuộc lĩnh vực nhân quyền và dân quyền, mặt khác kẻ lợi dụng tôn giáo ngày nay lại có nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn trước. Vì thế, kinh nghiệm cho thấy giải quyết vấn đề tôn giáo không đơn giản, rất dễ mắc sai lầm: hoặc tả khuynh, hoặc hữu khuynh (mà ở đây "bệnh tả khuynh" cũng nguy hại không kém "bệnh hữu khuynh").


7) Khi vấn đề tôn giáo được gắn với những vấn đề khác (chẳng hạn: với vấn đề dân tộc), thì tính phức tạp của vấn đề được nhân lên gấp bội.
 Ngày nay, bên cạnh việc lợi dụng tôn giáo, bọn đế quốc thường gắn vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc và xem đó như "hai gọng kìm" để "bẻ gẫy xương sống" của Cộng sản.  Từ những lý do nêu trên đủ cho ta thấy: Con bài lợi dụng tôn giáo của địch để chống phá cách mạng từ bên trong, là một con bài rất lợi hại.  


II/ KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC LỠI DỤNG TÔN GIÁO TRONG LỊCH SỬ.


1) Lịch sử lợi dụng tôn giáo trên thế giới.


a- Những sự kiện đáng chú ý:
 Việc lợi dụng tôn giáo của các triều đại phong kiến châu Âu để xâm chiếm lãnh thổ của nhau đã xuất hiện rất sớm, nhưng nó được thự c hiện một cách triệt để nhất vào thời kỳ cận-hiện đại. Từ thế kỷ XV-XVII, để phục vụ cho công cuộc mở mang thuộc địa đến các vùng đất xa xôi, Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha và Pháp đã biết dựa vào thế lực của giáo hội Công giáo (Tòa Thánh Va Ti Căng). Với danh nghĩa của những người đi "mở mang nước Chúa", "cứu chuộc những đứa con tội lỗi ở trần thế", "khai hóa văn minh", giáo hội Công giáo đã đóng vai trò như một lực lượng mở đường cho công cuộc chinh phục thuộc địa của thực dân. Mặt khác, thông qua đó giáo hội cũng đạt được một số mục đích như: đẩy mạnh công cuộc truyền giáo, mở rộng địa bàn ảnh hưởng, thu nạp thêm nhiều tín đồ, củng cố và nâng cao vị thế của giáo hội Công giáo trên thế giới.  Giữa thế kỷ XIX, trên thế giới xuất hiện hệ tư tưởng mới là chủ nghĩa Cộng Sản, càng ngày càng ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống xã hội, đe dọa trực tiếp lợi ích của giai cấp tư sản, phong kiến.  Ðể chống lại xu thế lịch sử đó, bọn đế quốc mà đứng đầu là đế quốc Mỹù liên kết với các thế lực phản động áp dụng nhiều thủ đoạn chống phá cách mạng một cách điên cuồng, trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao... Ðặc biệt, chúng tiếp tục đẩy mạnh việc lợi dụng các tôn giáo (nhất là giáo hội Công giáo) vào mục đích chính trị: Xóa bỏ nhà nước XHCN, xóa bỏ học thuyết Mác-Lênin.

Năm 1981, Giáo Hoàng Lê-On XIII đã công bố thông điệp "tâm sự" với nội dung chống chủ nghĩa Cộng sản... Thông điệp Bách Chu Niên (1991) kêu gọi thay thế học thuyết Mác-Lênin bằng học thuyết xã hội Công Giáo mà nền tảng là "phúc âm hóa" toàn thế giới.
 Từ năm 1945, hệ thống các nước XHCN được thiết lập trên khắp các châu lục. Ðể chống lại xu hướng lịch sử đó, đế quốc và các nước phản động khác (đứng đầu là đế quốc Mỹ), tìm mọi cách kéo giáo hội các tôn giáo vào cuộc chiến tranh "diễn biến hòa bình", nhằm xóa bỏ chế độ XHCN, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản ở các nước này.  Bằng cách lập ra những trung tâm thông tin, đêm ngày phát sóng tuyên truyền phát triển đạo, nói xấu Ðảng Cộng sản, kích động chiến tranh tôn giáo, chiến tranh sắc tộc, kêu gọi tín đồ đấu tranh đòi tự do tôn giáo, đòi tách giáo hội khỏi sự kiểm soát của Nhà nước XGCN, gây mất ổn định chính trị xã hội nhằm tạo thời cơ để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước đó.

b. Những phương thức chủ yếu của bọn đế quốc trong việc lợi dụng tôn giáo nhằm chống phá cách mạng.


1- Chúng tìm mọi cách để đưa giáo hội vào các cuộc chiến chính trị. Một mặt chúng thúc giục các giáo hội ủng hộ các đảng phái đồi lập hoạt động chống Ðảng Cộng Sản. Mặt khác thông qua hoạt động của các đảng phái đối lập để lôi kéo, tập hợp, kích động các chức sắc, giáo sĩ, tín đồ chống lại nhà nước XHCN.


2- Xúi giục các giáo hội đòi lập khu tôn giáo tự trị.
 Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, bọn đế quốc chú trọng đến việc xây dựng các khu tôn giáo tự trị ngay trên lãnh thổ các nước XHCN. Chẳng hạn ở Trung quốc, đã một thời xuất hiện khu tự trị Phật Giáo Tây Tạng.  Mục đích của việc hình thành các khu tự trị tôn giáo này là:  - Tăng thêm tính độc lập của giáo hội đối với nhà nước.

- Tạo thế và lực cho giáo hội hoạt động chống nhà nước.

- Tạo cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động can thiệp trực tiếp khi giáo hội yêu cầu. 

3- Khơi dậy, khoét sâu những mâu thuẫn, những vấn đề tôn giáo và dân tộc; kích động các cuộc chiến tranh mang màu sắc tôn giáo, sắc tộc, làm suy yếu tiến tới làm sụp đổ Nhà nước XHCN.
 Từ 1985 đến nay, thủ đoạn này được chúng sử dụng một cách triệt để. Hệ quả của nó là ở một số nước chính quyền không kiểm soát nổi dân, có nước bị chia cắt thành nhiều quốc gia nhỏ, vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản bị lu mờ (ví dụ Liên bang Nam Tư...).  Với những thủ đoạn nêu trên, có thể nói bọn đế quốc đã thành công trong việc lợi dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc, tạo thành một đòn tấn công hiểm hóc vào một số nhà nước XHCN ở Ðông Âu, và Liên Xô, phối gộp với các mũi tiến công khác làm sụp đổ XHCN ở các nước này. Ngoài ra, chúng còn gây ra tình hình phức tạp ở nhiều khu vực khác như Tây Á, châu Phi, và nhiều nước như Ấn Ðộ, Trung quốc, Việt Nam, Mianma...


2) Lịch sử lợi dụng tôn giáo ở Việt Nam.


Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo, nên việc lợi dụng tôn giáo để thực hiện mưu đồ chính trị được đế quốc và bọn phản động đặc biệt quan tâm. Do điều kiện lịch sử, mỗi tôn giáo bị lợi dụng ở mức độ khác nhau, trong đó giáo hội Công giáo (đạo Thiên Chúa) bị các thế lực thực dân cũ và mới lợi dụng nhiều nhất.
 Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn khác nhau, phương thức lợi dụng tôn giáo của kẻ thù cũng có sự khác nhau, tùy thuộc vào mục tiêu chính trị phản động của chúng trong giai đoạn đó.

a. Giai đoạn từ thế kỷ XVI đến trước năm 1945.


Ðạo Thiên Chúa truyền vào nước ta từ thế kỷ thứ XVI trong bối cảnh lịch sử nội chiến Nam-Bắc triều phân tranh Trịnh Nguyễn. Lúc đầu các giáo sĩ Hà Lan và Bồ Ðào Nha đã lợi dụng mâu thuẫn giữa hai tập đoàn phong kiến Việt Nam lúc đó để đạt mục đích truyền giáo cụ thể: người Hà Lan thì bán vũ khí cho chúa Nguyễn ở đằng trong, người Bồ thì bán vũ khí cho chúa Trịnh ở đằng ngoài để đánh nhau. Như vậy ngay từ đầu truyền giáo của các giáo sĩ đã gắn với chính trị; can thiệp vào nội tình chính trị của nước ta, phục vụ cho lợi ích thương mại của các quốc gia họ.
 Ðộng cơ phục vụ lợi ích "chính quốc" được thể hiện rõ nét hơn thông qua hoạt động của các giáo sĩ người Pháp trong tổ chức truyền giáo gọi là "Hội thừa sai Pa ri", bắt đầu từ năm 1664.  Ngay từ khi mới ra đời, hội thừa sai Pa ri đã được chính phủ Pháp sử dụng vào việc bành trướng thế lực thực dân của mình ở Viễn Ðông, đặc biệt là Việt Nam. Mục đích lợi dụng truyền giáo để phục vụ công cuộc thực dân được nhấn mạnh trong bản điều trần của Hội gửi quốc hội Pháp năm 1790 như sau:  "Hội TSPR là tổ chức duy nhất của các thầy tu người Pháp... có sứ mạng đem ánh sáng của đức tin và ảnh hưởng của nước Pháp tới các nước phương Ðông...

Các giáo sĩ của Hội không quên lợi ích của nước mình, họ sẽ và mãi mãi có nhiệm vụ thông báo cho nhà nước mọi phát kiến và những tin tức cần thiết mà họ đã thu được...Họ tạo điều kiện cho việc buôn bán của nước Pháp ở phương Ðông và chính họ đã tổ chức ra Công Ty Ðông ấn... Các giáo sĩ của Hội tin tưởng rằng Nhà nước sẽ có sự che chở đặc biệt cho Hội, được như vậy thì toàn thể hội viên của Hội sẽ có thêm nhiệt tình để phục vụ quốc gia mình với lòng hăng hái hơn bao giờ hết".
 Mục đích tôn chỉ đó đã được các giáo sĩ thừa sai quán triệt trong suốt quá trình truyền giáo ở Việt Nam. Tiêu biểu nhất (ở thời kỳ 1664-1802) là các giám mục Parancois - Pan Luy, Lam-be-de-lamốt, P. Poivre, và đặc biệt là giám mục Adran - Bá Ða Lộc.  Pan Luy muốn thông qua hoạt động bạo lực của Pháp để truyền giáo, khuyến khích Công ty Ðông ấn dùng bạo lực, cái mà ông ta gọi là "...một phương án vinh quang để đưa dân mọi rợ trở lại đạo thánh và qua đó mà thánh hóa việc thương mại của mình, vừa để mở mang giáo hội vừa làm giàu cho nước Pháp".

Còn P PoivRe, một thương nhân kiêm giáo sĩ, năm 1740 đã gửi về nước một bản báo cáo tỉ mỉ về hoàn cảnh địa lý, sản xuất, thuế khóa và phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo ở đằng trong.
 Tuy nhiên, hoạt động của hai vị giám mục nói trên mới chỉ dừng lại ở mức độ cung cấp tin tức tình báo về đất nước chúng ta, hoặc khuyến khích thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Sự kiện có tính chất điển hình hơn cả là hoạt động của Bá Ða Lộc (người được giới thực dân đánh giá như "một bậc tiên khởi" của quá trình xâm lược Việt Nam, kẻ trực tiếp làm môi giới cho Nguyễn ánh ký với Pháp Hiệp Ước Véc Xây (1787) với thỏa thuận:  Pháp giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn để giành lại Vương triều, Nguyễn Ánh cắt cho Pháp Côn đảo và Hội an (Quảng nam, Ðà nẵng). Với sự giúp đỡ của Bá Ða Lộc, Nguyễn Ánh đã đánh bại Tây sơn, lên ngôi năm 1802, và từ đó Việt Nam chính thức nằm trong sự ảnh hưởng của Pháp.  Từ những dẫn chứng trên cho phép ta kết luận:  Hoạt động của ba vị giám mục nói riêng, của các giáo sĩ thừa sai Pa-ri nói chung trong giai đoạn (1664-1802), không còn dừng lại ở mức độ phục vụ cho lợi ích kinh tế thương mại của các thế lực thực dân như trước.  Hoạt động của các giáo sĩ đã đạt tới mức độ là tạo ra nền tảng cho công cuộc thực dân của Pháp ở nước ta. Hậu quả mà dân tộc ta phải gánh là: Về mặt pháp lý, một phần lãnh thổ Việt Nam đã thuộc quyền của thực dân Pháp.  Ðánh giá về vai trò của Hội thừa sai Pa-ri đối với quá trình xâm lược Việt Nam, vua Napôlêon I của Pháp đã nhận định:  "Những giáo sĩ của hội truyền giáo ở nước ngoài sẽ rất có ích lợi cho tôi ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ, tôi sẽ cử họ đi điều tra tình hình các xứ. Tấm áo của họ sẽ che chở cho họ và dùng để ẩn dấu những mưu đồ chính trị và thương mại. Phí tốn cho họ ít thôi, họ sẽ được những người dã man kính trọng. Họ có vẻ không có gì là "chính thức" cả nên không thể gây điều gì sỉ nhục cho Nhà Nước, tính mẫn cán tôn giáo sẽ làm cho họ thi hành tốt mọi việc việc và coi thường hiểm nguy, vượt hẳn lên trên một viên chức bình thường".

Bước sang thế kỷ XIX, hoạt động cấu kết giữa các giáo sĩ với thực dân Pháp nhằm đạt mục đích truyền giáo và xâm lược cũng đậm nét. Có thể nói hoạt động của các giáo sĩ thế kỷ XIX là một bộ phận hợp thành trong công cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam. Mối quan hệ giữa thực dân và truyền giáo trong thời kỳ này được phản ánh qua một số hoạt động và sự kiện chủ yếu sau đây:


 * Các giáo sĩ tích cực thu thập tin tức tình báo phục vụ cho việc can thiệp bằng quân sự của Pháp vào Việt Nam.
 Giám mục Pơ Lô Ranh và linh mục Húc cai quản địa phận Huế không những tích cực vận động triều đình Napôlêôn III xúc tiến việc xâm lược bằng quân với nước ta, mà còn trực tiếp dẫn đường cho tàu chiến Pháp trong quá trình do thám và tiến công nước ta.

* Lợi dụng khoét sâu mâu thuẫn trong nội bộ dân tộc ta, cụ thể là: Mâu thuẫn nhân dân ta với các vua triều Nguyễn (do chính sách bóc lột nặng nề của nhà Nguyễn đưa lại); mâu thuẫn giữa quần chúng giáo dân theo đạo Thiên Chúa với người không theo tôn giáo, hoặc tín đồ của tôn giáo khác.
 Ðặc biệt là mâu thuẫn giữa quần chúng giáo dân với nhà Nguyễn, do những sai lầm có tính chất phương pháp trong việc cấm đạo, sát đạo của các triều đại phong kiến thời Nguyễn, làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc, tạo cơ hội cho các giáo sĩ tập hợp giáo dân chống lại triều đình, làm hậu thuẫn cho công cuộc xâm lăng của Pháp.  Ðiển hình trong lĩnh vực này là vụ giáo sĩ MaRchand (tức cố Dụ) tập hợp giáo dân vùng Gia Ðịnh giúp Lê Văn Khôi chống lại vua Minh Mệnh, vụ hai giáo sĩ Lêpêbve và Ducloc kích động dân Công giáo nổi loạn thời vua Thiệu Trị; vụ hai Giám Mục Sampedro, Hermosilla (tức cố Xuyên và cố Liêm) tổ chức giáo dân ở một số địa phận Nam định, Hải dương, Hưng yên, với mục đích rước Lê Duy Minh từ Ma Cao (Trung quốc) về nước để lật đổ triều Nguyễn.

Hoạt động công cuộc phục vụ thực dân của các giáo sĩ trong quá trình truyền giáo vào nước ta - thời kỳ từ năm 1802 đến khi nhà Nguyễn ký hòa ước nhâm tuất năm 1862 còn được phản ánh một cách đầy đủ, trực tiếp và toàn diện thông qua nội dung, tính chất và mức độ nghiêm khắc trong các "đạo dụ" (sắc chỉ) của các triều đại phong kiến đương thời. Cả thảy có 13 đạo dụ, trong đó mức độ "cấm đạo" tăng dần theo tính chất nghiêm trọng của tình hình. Chẳng hạn:

 - Thời Minh Mệnh, năm 1836 trước sự gia tăng hoạt động của các giáo sĩ lại trùng hợp thường xuyên xuất hiện của các tàu chiến Pháp trong vùng lãnh hải của ta, đặc biệt là những vụ lộn xộn về chính trị trong triều đình sau vụ biến Lê Văn Khôi, Minh Mệnh lập tức ra đạo dụ qui định "xử tội chém" đối với các giáo sĩ thừa sai có hành vi trinh thám dò la tin tức của ta.

- Thời Thiệu Trị, năm 1847, sau khi phát giác vụ Vũ Văn Ðiền tín đồ Thiên Chúa Giáo tiết lộ bí mật quân cơ cho các tàu chiến Pháp trong sự kiện thủy chiến Ðà Nẵng (1847), Thiệu trị ra đạo dụ cấm các quần thần của nhà vua theo đạo.


 - Thời Tự Ðức, ông tuyên bố tiếp tục theo đường lối cũ của cha ông đối với đạo Giatô (Thiên Chúa), song ông đã không qui định hình phạt một cách cụ thể hơn.  Cụ thể là: Các giáo sĩ Tây dương mà phạm luật thì bị quăng xuống biển, các linh mục người Việt phạm luật thì bị xử tử, giáo dân vi phạm thì bị thích chữ vào mặt...  Rồi từ năm 1848, do tình hình trong nước xảy ra nhiều biến cố phức tạp nên Tự Ðức liên tiếp ra các đạo dụ khác để ngăn cản, hạn chế, trừng trị các hoạt động của giáo sĩ và giáo dân có ảnh hưởng xấu tới an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc.  Như vậy, sự gia tăng về số lượng và mức độ của hình phạt được qui định trong các đạo dụ cấm đạo, sát đạo của nhà Nguyễn hoàn toàn trùng hợp với sự gia tăng những hoạt động lợi dụng truyền giáo phục vụ công cuộc xâm lược của các giáo sĩ. Sự trùng hợp đó cho phép ta kết luận: Chính sách cấm đạo, sát đạo của các vua nhà Nguyễn là hậu quả tất yếu do nhu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc, nảy sinh từ chính sách thực dân - Gia tô của Pháp đối với nước ta thời đó. Ðiều đáng tiếc ở đây là các vua nhà Nguyễn đã phạm sai lầm về phương pháp. Hậu quả của sai lầm đó như chúng ta đã biết: nó tạo ra cái cớ để bọn thực dân dụng danh nghĩa "bảo vệ những người đồng đạo" để tiến hành xâm lược nước ta bằng quân sự.

Sự cộng tác của giáo hội với thực dân Pháp ở Việt Nam trong thế kỷ XIX còn thể hiện ở chỗ:

Giáo hội là chỗ dựa cho chính sách ngu dân về văn hóa của bọn thực dân. Về thực chất đây là một bộ phận của chính sách cai trị thuộc địa theo lối đồng hóa nền văn hóa dân tộc. Mục tiêu của sự đồng hóa này là "Thiên Chúa giáo hóa" Việt Nam để đạt mục đích xâm lược và cai trị dân. Bằng cách sử dụng giáo sĩ vào công việc quản lý nhà nước, loại trừ ảnh hưởng của Nho giáo (hệ tư tưởng chính thống trong nền văn hóa Việt Nam dưới thời phong kiến). Nhiều giám mục đã đề nghị thực dân đàn áp đội ngũ sĩ phu "Văn Thân" của Việt nam, vì theo họ: "Bọn Văn Thân rất có ảnh hưởng, họ công tiến lớn và một khi được làm quan là thiên hạ kính trọng họ, vì vậy nhất thiết phải thanh toán bọn họ đi..., bởi vì họ quá yêu nước không thể nào chấp thuận sự cai trị của chúng ta. Hơn nữa, chẳng bao giờ một người Văn Thân chịu theo đạo Ki-Tô!" (theo lời kể của toàn quyền Lan Ít xăng).


Ðối với quần chúng, các giám mục Pháp chủ chương tôn giáo hóa bằng nhiều biện pháp khác nhau:

Làm cho họ thấy rõ lợi ích của việc theo đạo; hoặc bằng cách nào đó để họ thấy được vấn đề là nếu đã theo đạo mà bỏ đạo thì không an toàn về cuộc sống; kể cả dụ dỗ và cưỡng bức theo đạo.
 Ðối với giáo dân, giáo hội cấm không cho họ tiếp xúc với xã hội người lương, các tài liệu sách báo có tư tưởng yêu nước, cách mạng. Việc làm này phục vụ cho chính sách chia rẽ lương - giáo, biến các làng giáo dân, khu vực giáo dân thành những cứ địa riêng để cha cố dễ bề quản lý hoặc huy động vào các mục đích thực dân khi cần thiết.  Về phía thực dân Pháp, trong quá trình thực hiện chính sách ngu dân của mình ở Việt Nam, chính phủ Pháp đã tiến hành nhiều biện pháp để ngăn cản việc truyền chức linh mục, giám mục cho giáo sĩ người Việt Nam. Họ sợ rằng nếu các giáo sĩ Việt Nam có tinh thần yêu nước và tự tôn dân tộc nắm giữ các chức vụ quan trọng trong giáo hội thì sẽ tác động trực tiếp tới giáo dân và làm cho giáo dân thức tỉnh chống lại kẻ xâm lược. Trong nội bộ giáo hội, các giáo sĩ nước ngoài cũng tìm cách ngăn cản xu hướng tiến bộä của một số giáo sĩ người Việt, ngăn cản luồng tư tưởng đòi trả giáo hội Việt Nam cho người Việt Nam.

Trên thực tế, trong chừng mực nhất định, thực dân Pháp đã thực hiện được âm mưu tách cộng đồng giáo dân của Ðạo Thiên Chúa ra khỏi cộng đồng dân tộc, bằng cách tạo ra trong giáo dân sự mặc cảm, sự ngộ nhận nguy hiểm rằng giữa đức tin và nghĩa vụ công dân có một sự mâu thuẫn không thể dung hòa, mà sự lựa chọn theo đúng ý Chúa là từ bỏ dân tộc để giữ lấy đức tin. Hướng giáo dân vào cuộc đấu tranh chống lại chính dân tộc mình để bảo vệ đức tin - vào cuộc đấu tranh giữa các ý thức hệ và chủ thuyết khác nhau. Vì thế khi Ðảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thì bọn thực dân và những người cầm đầu giáo hội lại tung ra các luận điểm về "mối hiểm họa cộng sản", "mâu thuẫn cộng sản - công giáo" "vô thần - hữu thần" để biện hộ cho hành vi cướp nước và bán nước, chống lại các phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ và hòa bình của nhân dân ta.


b- Giai đoạn 1945-1954.


Ngày 02.9.1945, Nước Việt Nam dân chủ cộng hào được thành lập, sự kiện đó đã mở ra giáo hội Việt Nam một cơ hội: Từ bỏ con đường cũ, con đường hoàn toàn phụ thuộc vào thực dân, phục vụ cho những mục đích xâm lược và cai trị của chúng, để vươn lên tự khẳng định mình, hòa nhập vào trong lòng dân tộc. Ða số giáo dân và giáo sĩ người Việt yêu nước đã hân hoan đón chào độc lập, hăng hài góp phần nhỏ bé của mình của mình vào sự nghiệp chung của đất nước.  Song, phần lớn các giáo sĩ ngoại quốc vẫn giữ thái độ im lặng, chờ thời, hoặc hoạt động chống phá ngầm. Và đúng như bản chất phản cách mạng của chúng, khi Pháp trở lại xâm chiếm Việt Nam, bọn phản động trong giáo hội lại tiếp tục phản bội dân tộc Việt Nam. Tính chất chính trị phản động của giáo hội ở thời kỳ này biểu hiện chỗ: Lợi dụng các sắc chỉ chống cộng sản của tòa thánh để chống lại chính phủ ta (Vì chính phủ là cộng sản) sử dụng những khẩu hiệu như: "Nguy cơ đỏ", "Hãy tiêu diệt cộng sản để làm vinh danh Chúa"... Nhằm mục đích chia rẽ đối lập giữa đồng bào Công giáo với Chính phủ với đồng bào không theo tôn giáo.  Tinh thần đó được bộc lộ một cách công khai trong thư chung của Hội đồng giám mục Việt Nam năm 1951: "... Chúng tôi thấy mình có bổn phận nhắc nhở anh chị em đề cao cảnh giác, chống lại nguy cơ hết sức to lớn: Chủ nghĩa Cộng sản vô thần là một mối đe dọa lớn nhất hiện nay. Chẳng những cấm anh chị em vào Ðảng Cộng sản mà anh chị em cũng không được hợp tác với họ, hoặc làm bất cứ việc gì có lợi cho Ðảng... Chúng tôi có bổn phận nhắc nhở anh chị em đề phòng cả đối với những kiểu lượn lẹo và mưu chiếc của người Cộng sản dùng để đánh lừa dân chúng. Những mưu chước ấy chỉ phục vụ cho các mục tiêu của người cộng sản mà thôi..."  Có thể khái quát thủ đoạn lợi dụng giáo hội Công giáo của thực dân Pháp vào mục đích chống lại cuộc kháng chiến của dân tộc ta như sau:

- Tuyên truyền về "hiểm họa cộng sản" để lôi kéo mê hoặc, xô đẩy tín đồ vào cuộc phản chiến chống cộng sản, bất hợp tác với chính phủ vì chính phủ là cộng sản.


- Gán cho Cộng sản tất cả những gi xấu xa nhất.
 - Ðưa ra những triết lý biện minh cho chính sách thực dân, như: "Chính sách thực dân dưới con mắt của các nhà luật học và lý luận học vẫn là một việc hợp lý, vừa giúp ích cho nhân loại vừa là hành vi nhân đạo".

- Tuyên truyền về "Cộng sản đàn áp giáo hội", thúc ép giáo dân di cư vào nam (năm 1954).
 - Bên cạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo hội còn tiến hành thành lập các tổ chức, Ðảng phái hoạt động để "đoàn ngũ hóa" giáo dân, biến giáo dân thành tai mắt và thành lũy để chống lại kháng chiến, như: "Ðạo Binh đức mẹ", Ðạo Binh Xanh". Hiệp hội hiến sỹ đức mẹ bảo vệ nhà thờ...".  - Phạt vạ những giáo sĩ và giáo dân tham gia ủng hộ giúp đỡ kháng chiến.

- Nguy hiểm nhất là chúng tiến hành vũ trang cho dân công giáo. Thực tế cho thấy vào năm 1950, hầu hết các xứ đạo đều được vũ trang (Tề, Ngụy). Lính công giáo được thôi thúc bởi tín điều chống cộng sản nên hành động rất điên cuồng. Sử sách còn ghi lại những cuộc hành quân càn quét và những hành động tàn sát dã man của lính công giáo với người lương, đặc biệt là với "quân của kháng chiến". Với một đội quân khát máu bởi bị mê hoặc vào chiêu bài chống cộng của bọn thực dân, lính công giáo đã thực sự trở thành cái mà đế quốc Pháp và bọn phản động đội lốt tôn giáo cần "để nói chuyện với chính phủ cộng sản" như giám mục Lê hữu Từ đã từng tuyên bố.


- Với những thủ đoạn nói trên, thực dân Pháp và bọn phản động trong giáo hội lại một lần nữa đẩy quần chúng giáo dân vào hoàn cảnh khó xử... muốn giữ đạo thì phải từ bỏ kháng chiến, từ bỏ dân tộc... nên thực tế chúng đã thực hiện được một phần mục đích chia rẽ khối đoàn kết toàn dân tộc là một yếu tố đóng vai trò to lớn với sự thành công của cách mạng.



c- Giai đoạn 1954-1975.


Trong những năm 1954-1955 các thế lực phản động đã kêu gọi người Công giáo di cư vào miền nam nhằm thực hiện ý đồ xây dựng một chính quyền mà trong đó người Công giáo chiếm đa số để đối đầu với Cộng sản.
 

Thời kỳ này đế quốc Mỹ đã thi hành chính sách thực dân kiều mới ở Miền Nam Việt Nam dựng lên chính quyền tay sai Ngô Ðình Diệm mà nòng cốt là những người Công giáo: 50% lính trong quân đội Ngụy là người Công giáo, 40% tướng tá Ngụy là Công giáo. Mỹ ngụy đồng loạt dựng lên các tổ chức Công giáo phản động: "Liên đoàn sĩ quan Công giáo khu thủ đô sài gòn", "Thanh niên công giáo tiến hành", ?thanh niên thôn quê Công giáo", "Thanh niên cộng hòa" do chính các linh mục và giám mục chỉ huy hoặc làm cố vấn, các tổ chức trên được sử dụng nhiều trong chiến dịch "tố cộng", "diệt cộng".


- Mỹ-Ngụy đã sử dụng thủ đoạn kích động tư tưởng kỳ thị tôn giáo giữa đạo Công giáo với đạo Phật: đưa đạo Công giáo lên hàng quốc đạo, thẳng tay đàn áp những giáo tín đồ có tư tưởng tiến bộ.
 - Thấy việc lợi dụng đạo Công giáo chống phá cách mạng vẫn chưa đủ, Mỹ-Ngụy ra sức lợi dụng đạo Hòa Hảo và đạo Cao đài, đồng thời Mỹ còn hậu thuẫn cho việc phát triển đạo Tin Lành ở miền Nam, xây dựng và gắn kết lực lượng phản động Fulro ở vùng Tây nguyên với đạo Tin lành.

- Từ năm 1974 trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, nguy cơ sụp đổ của chính quyền Ngụy ngày càng trầm trọng, Mỹ đã chuyển hướng lợi dụng tôn giáo theo một chiều hướng mới để phục vụ cho mục đích chống phá cách mạng thời kỳ hậu chiến tranh cụ thể là:


- Ðối với đạo Công giáo: không trực tiếp chống cộng sản bằng vũ lực mà chống phá mạnh mẽ trong lĩnh vực chính trị tư tưởng. Ngăn chặn các chức sắc tiếp xúc với những luồng tư tưởng tiến bộ, cô lập các chức sắc có tư tưởng tiến bộ, kích động các tín đồ xuống đường biểu tình phản đối các chính sách của chính quyền cách mạng.


- Ðối với đạo Tin Lành: Tiếp tục củng cố các tổ chức ở vùng dân tộc ít người, gắn kết tin lành với phản động FULRO xây dựng thêm nhiều cơ sở phản động trong đao tin lành để đối phó với cách mạng sau khi miền Nam được giải phóng.
 - Ðối với đạo Cao đài và Hòa hảo: Ðế quốc Mỹ đã giúp đỡ các tổ chức tôn giáo xây dựng lực lượng vũ trang nhằm mục đích chống phá cách mạng trên cả hai lĩnh vực chính trị và quân sự.  - Ðối với đạo Phật: Ðế quốc Mỹ nhận định đối với Phật giáo ở Việt nam trước mắt chưa thể lợi dụng được nhưng sẽ lợi dụng bằng cách dùng các tổ chức Phật giáo ở ngoài nước để tác động vào một số chức sắc ở Việt Nam, (tổ chức mà Mỹ chuyên lợi dụng là "tổ chức thân hữu Phật tử thế giới"). 

 d- Giai đoạn 1975 đến nay:


Ðế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế vẫn chủ trương tiếp tục lợi dụng các tôn giáo vào hoạt động chống phá Việt Nam nhất là đối với đạo Công giáo và đạo Tin Lành.
 Căn cứ vào tình hình kinh tế, chính trị xã hội nước ta, thực lực của giáo hội Công giáo Việt nam, Va ti căng chỉ đạo giáo hội: Không nên manh động, đối đầu với nhà nước, mà phải tập trung phát triển thế lực, là, cho giáo hội có đủ lực lượng để có thể làm đối trọng với nhà nước ta; phải đặc biệt chú trọng tới việc củng cố các đại chủng viện để phục vụ cho việc đào tạo một lớp giáo sĩ có khả năng thích ứng nhằm chống lại chế độ ta trong tương lai...; phải tích cực tham gia các hoạt động từ thiện xã hội để nắm quần chúng tạo vốn chính trị cho giáo hội; phải đổi mới thường vụ hội đồng giám mục Việt Nam theo hướng các thành viên là người có thái độ "cứng rắn" về nguyên tắc nhưng phải "mềm mỏng và hợp thời" trong hoạt động thực tiẽn, có khả năng tranh thủ nhà nước và thu hút được giáo dân; cấm các giáo sĩ tham gia Ủy Ban đoàn kết công giáo; đặc biệt chú ý đến lôi cuốn thanh thiếu niên, trí thức, cán bộ Ðảng viên trong các vũng giáo.. như vậy, ý đồ của Va ti căng là củng cố thế và lực cho giáo hội Công giáo Việt nam đủ mạnh mẽ để sử dụng như một công cụ, phương tiện chống phá ta lâu dài. Dùng giáo hội để làm xói mòn cơ sở quần chúng, cơ sở Ðảng của ta trong các vùng giáo, biến các địa bàn Công giáo thành các lãnh địa riêng.

Hiện nay, Va ti căng đang tìm mọi cách để đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam (Tòa Khâm Sứ) để trực tiếp chỉ đạo giáo hội Thiên Chúa ở nước ta như trước đây.
 Những năm gần đây, Va ti căng đặc biệt chú ý lợi dụng số tín đồ Công giáo Việt Nam lưu vong ở nước ngoài (Mỹ, Pháp, Italia) để tác động vào giáo hội Việt nam hoạt động chống phá chế độ. Số này có khoảng 400 linh mục, 200 tu sĩ và hàng trăm ngàn giáo dân, tập hợp trong các tổ chức "Thiên Chúa giáo Việt Nam hải ngoại", "Liên đoàn Công giáo Việt nam", "Cộng đồng giáo sĩ, tu sĩ Việt Nam" ở Mỹ. Nhiều người trong số đó có hận thù với cộng sản, thuộc các đảng phái phản động trong Ngụy quân ngụy quyền trước đây, một số tín đồ là đảng viên đảng cần lao nhân vị thời Ngô Ðình Diệm. Va ti căng đã cho thành lập "văn phòng trung ương tông đồ mục vụ Việt nam - Hải ngoại" để tập hợp số tín đồ Việt nam lưu vong ở nước ngoài. Văn phòng này là một thành viên tích cực tham gia dàn dựng cho việc phong 117 thánh tử đạo cho Việt Nam (năm 1988).  Việc phong thánh lần này là sự kiện mang tính chất chính trị, vì nó được thực hiện vào đúng ngày thành lập "quân lực Việt nam Cộng hòa", phần lớn các giáo sĩ được tân phong thánh tử đạo lại có quá trình cộng tác với thực dân Pháp chống lại nhà nước Việt nam, vi phạm chủ quyền độc lập dân tộc ta thời các vua nhà Nguyễn.  "Văn phòng trung ương tông đồ mục vụ Việt nam hải ngoại" đã chỉ đạo số tín đồ là Ðảng viên Ðảng cần lao nhân vị khôi phục lại đảng của chúng, và ra thông bào "hiệp thông" đề ra kế hoạch hậu cộng sản, gửi về nước nhằm tác động vào bọn phản động trong nước, số ngụy quân ngụy quyền cũ hoạt động chống phá ta.

Văn phòng này còn tập hợp tín đồ các tôn giáo khác (Cao đài, Hòa hảo, Tin lành, Phật giáo), với ý đồ tạo ra một liên minh tôn giáo chống cộng ở nước ngoài, rồi từ đó tác động vào trong nước, để các tôn giáo ở trong nước hoạt động chống phá sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta. Ðây là một thủ đoạn mới của kẻ thù.  Ðể tạo ra điều kiện vật chất cho giáo hội Công giáo Việt nam hoạt động theo ý muốn của mình, Va ti căng chỉ đạo nhiều tổ chức tôn giáo nước ngoài viện trợ tiền, tài liệu phản động và trao đổi kinh nghiệm chống CNXH ở Ðông Âu, Liên Xô với giáo hội Việt nam. Va ti căng còn gửi vào Việt nam hằng trăm tài liệu, sách báo có nội dung xấu, bôi nhọ chế độ XHCN, kích thích tinh thần tử vì đạo của quần chúng tín đồ. Từ năm 1981 đến 1986 có 765 tài liệu phản động, riêng năm 1986, có 200 tài liệu có nội dung chống phá cách mạng nước ta.  Va ti căng còn sử dụng quyền tòa thánh để sắp đặt những người có ý thức và kinh nghiệm chống đối nhà nước vào chức tổng giám mục ở các tòa.  Cùng với những hoạt động hà hơi tiếp sức cho các phần tử chống chế độ trong giáo hội, Bộ đế quốc phối hợp với Tòa thánh Va ti căng còn sử dụng các đài phạt thanh của các nước tư bản, các báo, tạp chí của các tổ chức người Việt nam di tản để phát tán vào nước ta, hòng phá hopại tư tưởng quần chúng, chia rẽ dân với Ðảng, chia rẽ dân tộc, lương giáo. Ðài phát thanh "nguồn sống" hàng ngày phát sóng bằng tiếng Việt và tiếng Mông để tuyên truyền phát triển đạo, vu khống ta vi phạm nhân quyền, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo...

Ngoài ra, Va ti căng còn chú ý lợi dụng các tổ chức tôn giáo phi chính phủ (NGO), giáo hội Công giáo ở các nước tư bản đế quốc, đặc biệt là Pháp, Mỹ, vào Việt Nam với danh nghĩa viện trợ nhân đạo từ thiện, tham quan du lịch để nắm tin tức tình hình mọi mặt của ta.  Va ti căng còn gửi cho giáo hội Công giáo Việt Nam "Thông điệp bách chu niên" của giáo hoàng Gioan Pôn II, một văn kiện phản ánh chiến lược "xã hội Công giáo" của tòa thánh trong bối cảnh thế giới "một siêu cường" (theo quan niệm của họ). Về thực chất, đây là một văn kiện chống CNXH vàCNCS trên cả hai bình diện học thuyết và hiện thực, rất phù hợp với quan điểm phản động chống học thuyết Mác và CNXH hiện thực của bọn đế quốc trong chiến lược diễn biến hòa bình.  Vậy là trong giai đoạn hiện nay, đế quốc Mỹ và Va ti căng vẫn đang thực hiện chiến lược sử dụng các tôn giáo nói chung, giáo hội Công giáo nói riêng vào mục đích chính trị đen tối của chúng, thực hiện diễn biến hòa bình ở Việt Nam.  Tuy nhiên, phương thức lợi dụng tôn giáo đã có phần thay đổi, từ chỗ trước đây thành lập các tổ chức chống phá cách mạng công khai, điên cuồng, chuyển sang phương thức mềm dẻo và "hợp thời" hơn (song bản chất phản động vẫn không thay đổi), vì thế mà cũng nguy hiểm hơn. Nó có thể tạo nên tư tưởng lơ là, mất cảnh giác, hữu khuynh trong công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.

Song song với việc lợi dụng Công giáo, Mỹ còn đạo diễn các hệ phái Tin lành nước ngoài tác động trực tiếp vào các tổ chức Tin Lành trong nước, cung cấp tài chánh cho các hệ phái trong nước hoạt động nhằm củng cố tổ chức, phát triển tín đồ, mở rnang địa bàn ảnh hưởng lên vùng núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên. Ðẩy mạnh công cuộc truyền giáo vào đồng bào các dân tộc ít người, Ðế quốc Mỹ đang muốn diễn lại mô hình "truyền giáo - xâm lăng" của thực dân Pháp thuở xưa, nhưng ở một trình độ cao hơn, bằng những thủ đoạn tinh xảo hơn và phương tiện truyền giáo hiện đại hơn !...  Chính nhờ có sự hậu thuẫn của đế quốc mà những năm qua đạo Tin lành ở nước ta phát triển với tốc độ rất nhanh.

Năm 1945: cả nước có 6,000 tín đồ.
Năm 1954: cả nước có 50,000 tín đồ.
Năm 1995: cả nước có 300,000 tín đồ.

Vậy là chỉ trong vòng một nửa thế kỷ, số tín đồ đã tăng gấp 50 lần. Nhất là trong mười năm trở lại đây, đạo Tin lành phát triển với tốc độ không ngờ ở một số địa bàn. Chẳng hạn:  Tại các tỉnh miền núi phía Bắc: Mặc dù đã tiếp cận với đồng bào dân tộc từ năm 1986, nhưng từ năm 1991 đến nay đã phát triển thành phong trào. Số tín đồ tăng từ 0 lên 5 vạn người.  Vùng Tây nguyên: Năm 1975 mới có 5 vạn tín đồ, gần đây phát triển nhanh, chủ yếu ở thị xã, thị trấn, thị tứ và vùng có đồng bào dân tộc ít người. Ðến nay con số này đã lên tới 20 vạn tín đồ.  Bọn đế quốc thừa biết là Nhà nước Việt nam không khuyến khích phát triển tôn giáo, nên chúng càng ra sức hỗ trợ cho các giáo hội phát triển tín đồ, mở rộng địa bàn; chúng hy vọng sẽ xảy ra sự đụng chạm giữa chính quyền cơ sở với tập hợp những người mới theo đạo Tin lành, (nhất là với các đối tượng truyền đạo đang hoạt động bất chấp sự phản ứng của chính quyền). Ðể rồi từ đó, dần dần hình thành "một cách tự nhiên" luồng suy nghĩ mặc cảm, oán ghét chính quyền trong dân chúng. Khi mâu thuẫn đó phát triển đến mức độ nhất định, địch sẽ biến số quần chúng này trở thành lực lượng đối trọng với Nhà nước. Có thể nói đây là một thủ đoạn "ly gián" rất tinh vi, rất xảo quyệt.


 III/ MỘT SỐ NHIỆM VỤ CHỦ YẾU NHẰM PHÒNG, CHỐNG ÐỊCH LỠI DỤNG TÔN GIÁO TRONG TÌNH HÌNH MỚI.


Âm mưu của địch lơi dụng tôn giáo để chống phá cách mang rất nham hiểm, song việc chúng có thực hiện được hay không còn phụ thuộc vào phía ta. Nhiệm vụ bao trùm hiện nay là: bằng mọi cách, chúng ta phải làm mất cơ sở lợi dụng của địch. Muốn vậy, cần thực hiện tốt những nội dung sau đây:

1. Phải có chủ chương, chính sách đúng, phù hợp với tình hình, làm cho đồng bào có tôn giáo yên tâm tin tưởng vào Ðảng và Nhà nước. Các cấp phải tổ chức thực hiện đúng cả chủ chương, chính sách đó, làm cho nó đi vào cuộc sống.

2. Việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của dân, đảm bảo cho các tín đồ (người thực sự có niềm tin tôn giáo) có nơi để thờ tự, có kinh sách để đọc, có người tốt hướng dẫn việc đạo, đồng thời phải quản lý chặt chẽ tình hình tư tưởng và mọi hoạt động tôn giáo, xã hội của các tổ chức tôn giáo, không được lơ là cảnh giác, buông lỏng công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.  Trong thực tiễn, điều khó nhất là phân biệt hoạt động tôn giáo chính đáng đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của người có đạo với những hoạt động mê tín dị đoan và những âm mưu, hành động lợi dụng tôn giáo lôi kéo đồng bào có đạo vào các hoạt động phá hoại cách mang. Cùng một hành động có khi mang ý định lành mạnh, có khi chứa đựng dụng ý xấu; hoặc có khi ý đồ xấu của một số phần tử thù địch xâm nhập và ẩn dấu dưới những hoạt động bình thường của đông đảo đồng bào có đạo.  Vì vậy, cần phải cố gắng phân tích, tách yếu tố chính trị phản động ra khỏi yếu tố tôn giáo thuần túy.

3. Giúp đỡ các giáo hội xây dựng tổ chức và duy trì đường hướng hành đạo theo đúng tinh thần của nước Việt Nam độc lập, có chủ quyền.  "Nhưng đất nước độc lập thì tôn giáo cũng phải được độc lập, các tôn giáo phải hành đạo đúng với tư cách tôn giáo ở một nước độc lập tự chủ. Các tôn giáo, nhất là thiên chúa giáo, không thể lệ thuộc bên ngoài. Phải nâng cao ý thức dân tộc của chức sắc và giáo dân."  (trích bài phát biểu hướng dẫn tổng kết nghị quyết 24 của Bộ chính trị - của dồng chí Phạm Thế Duyệt, UVBCT).

4. Ra sức cũng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân trong đó có đông bào theo các tôn giáo. Muốn đoàn kết được, trước hết phải xóa bỏ định kiến, mặc cảm hiện nay đang tồn tại ở cả hai phía: cán bộ và nhân dân, đồng thời phải đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện kích bác, gây chia rẽ giữa lương và giáo, giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, giữa quần chúng có đạo với chính quyền địa phương.  "Quan điểm của Ðảng cũng như tư tưởng của Bác Hồ hoàn toàn xa lạ với thái độ kỳ thị tôn giáo, chỉ thấy những biểu hiện tiêu cực, trái khoa học mà bỏ qua mặt tích cực, coi tôn giáo chỉ có tác dụng xấu.

Trong đời sống thực tế, nổi lên tình hình khá phổ biến là đồng bào có đạo thường tích cực tham gia làm việc nghĩa, ít tiêm nhiễm các tệ nạn xã hội; các hình thức hoạt động xã hội tự quản của dân cư, hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để giữ gìn trật tự trị an, giải quyết các tranh chấp nội bộ, chống các tệ nạn xã hội và hành vi phạm pháp cũng xuất hiện sớm và phát triển nhanh ở một số nơi đồng bào có đạo; những cuộc vận động xóa đói giảm nghèo, xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí, xây dựng gia đình và khu dân cư văn hòa mới cũng được đông bào có đao nhiệt tình hưởng ứng tham gia.  Những kinh nhiệm và mô hình tốt, thể hiện mặt tích cực của đồng bào có đạo cần được tổng kết và nhân rộng. Ðồng thời đó là căn cứ thực tế giúp cho việc khắc phục thái độ còn hẹp hòi, nặng về đối phó của một số cán bộ, đảng viên và cơ quan chính quyền đối với tôn giáo, dẫn tới việc làm sai chính sách khiến cho chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo ở một số nơi còn giữ mặc cảm, nghi kị đối với chính sách của Ðảng và Nhà nước ta".  (trích phát biểu của Phó thủ tướng: Phan Văn Khải, UVBCT, tại hội nghị tổng kết hướng dẫn nghị quyết 24/NQ/TW).

5. Xây dựng và phát triển phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc trong vùng đồng bào có dạo. Song, nội dung phải thiết thực, sát với đặc điểm từng nơi. Phong trào phát triển [13] tốt, chính là tại thế trận "thiên la địa võng" làm cho kẻ địch khó bề hoạt động, đụng vào đâu cũng vấp phải sức phản kháng tại chỗ.

6. Làm tốt công tác nắm các chức sắc, chức việc, giáo sĩ để tranh thủ họ. Ðối tượng đầu tiên mà địch nhắm tới để lợi dụng là đội ngũ, chức sắc, chức việc, giáo sĩ (nhất là chức sắc cao cấp trong các giáo hội), thủ đoạn của địch là gây chia rẽ trong nội bộ các chức sắc, tạo ra xu hướng ly khai trong một số giáo sĩ để rồi lợi dụng họ vào mục tiêu chống phá cách mạng. Vì vậy, nếu ta tranh thủ được đội ngũ này tức là đã làm mất đi cơ sở lợi dụng quan trọng của địch. Muốn thế ta phải tôn trọng họ, hiểu từng người một, tranh thủ mặt tích cực của họ dù là nhỏ. Khi xuất hiện xu hướng ly khai phải xử lý kịp thời, không để đích tạo dựng ngọn cờ rồi tập hợp lôi kéo quần chúng chống phá ta. Phải chủ động, không để sự việc xảy ra rồi mới tập trung giải quyết.

7. Khi giải quyết các vấn đề tôn giáo phức tạp, cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau:

 - Chủ trương giải quyết thế nào là do ta, nhưng phải lấy giáo hội để giải quyết vần đề của giáo hội (thông qua các chức sắc tiền bộ). cơ quan điều hành của giáo hội có trách nhiệm về mọi vấn đề có liên quan đến tôn giáo, xã hội xảy ra trong phạm vi quản lý của mình, vì vậy họ không thể từ chối trách nhiệm khi ta yêu cầu phối hợp giải quyết.

 - Việc giải quyết các vấn đề tôn giáo phức tạp phải êm và gọn, không để lây lan, phát triển thành điểm nóng, nên khoanh lại từng vùng, từng việc một để giải quyết cho ổn. Không để các thành phần chống đối liên kết thành tổ chức. Khi phát hiện có sự liên kết trong và ngoài nước, cần phải có kế hoạch "phá" càng sớm càng tốt. Phải giải quyết cả những vấn đề "bên trong" và "bên ngoài", nhưng "trong" là chính - làm mất cơ sở của địch ở bên trong là chính.

 - Khi giải quyết một vấn đề tôn giáo phức tạp (hoặc liên quan đến tôn giáo) vấn đề quan trọng là phải ổn định được tình hình, giữ vững được đoàn kết, không tạo ra kẽ hở để địch có thể kích động lợi dụng quần chúng. Nếu xử lý mà không ổn định được tình hình thì phải coi việc xử lý đó là không đạt yêu cầu và phải xem xét lai.

- Trong quá trình giải quyết, có thể kết hợp một cách khéo léo, hài hòa giữa "luật đạo" và "luật đời", tuy nhiên vẫn phải bảo đảm nguyên tắc chung là "luậït đạo" phục tùng "luật đời" (luật pháp nhà nước)./.

--

Người Quốc Gia là những người đặt Tổ Quốc lên bản vị tối cao, tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi vật, kể cả tôn giáo, đảng phái, và cả chính bản thân mình.


29 September 2010

NGÀN NĂM GƯƠNG CŨ

NGÀN NĂM GƯƠNG CŨ

                                  Trần Gia Phụng

 

1.-   RỒNG BAY CÁCH ĐÂY MỘT NGÀN NĂM

 

Sau khi đảo chánh, lật đổ nhà Tiền Lê vào cuối năm 1009 (kỷ dậu), Lý Công Uẩn lên ngôi vua năm 1010 (canh tuất), lấy niên hiệu là Lý Thái Tổ (trị vì 1010-1028), lập ra nhà Lý (1010-1225).  Việc đầu tiên của Lý Thái Tổ là quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La, và đổi tên là Thăng Long vào tháng 7 năm canh dần.

 

Việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La được Lý Thái Tổ giải thích như sau: "Ngày xưa, nhà Thương [Trung Hoa, 1783-1123 TCN] đến đời Bàn Canh [vua Thương thứ 17, 1401-1374 TCN] năm lần dời đô, nhà Châu [Trung Hoa, 1134-256 TCN] đến đời Thành Vương [vua Châu thứ 3, 1115-1079] ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam đại ấy theo ý riêng tự dời đô xằng bậy đâu?  Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh.  Thế mà hai nhà Đinh Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ của Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp.  Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.  Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương [Cao Biền], ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước.  Vùng nầy mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh.  Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.  Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở..."( Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư [chữ Nho], Hà Nội: bản dịch tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, 1998, tr. 241.)

 

Nói như thế, nhưng quyết định dời đô của Lý Thái Tổ bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa hơn là chiếu chỉ đã viết.  Vùng Hoa Lư là địa bàn sinh hoạt của đại gia tộc nhà Tiền Lê.  Lý Thái Tổ lật đổ nhà Tiền Lê và cướp chính quyền.  Cuộc đảo chánh bề ngoài xem ra êm ái, ít được sử sách ghi lại chi tiết.  Có thể vì "lịch sử thuộc về kẻ chiến thắng", vua quan nhà Lý không muốn nhắc đến việc nầy, nên đời sau không biết mà ghi lại.  Tuy nhiên một đại gia tộc như nhà Tiền Lê, với khoảng 10 hoàng tử đã từng tranh quyền với nhau, hoàn toàn bị tiêu diệt, ắt hẳn phải xảy ra một cuộc tranh chấp rất gay gắt.  Có thể Lý Thái Tổ lo ngại thế lực còn lại của nhà Tiền Lê, hoặc dư âm của cuộc đảo chánh, không muốn ở lại địa bàn còn nhiều ảnh hưởng của triều đại trước. 

 

Thứ đến, thành Đại La nằm gần Bắc Ninh, nơi xuất phát của Lý Thái Tổ và quân sư của ông là thiền sư Vạn Hạnh.  Bắc Ninh là chiếc nôi của Phật giáo nước ta, nơi từ đầu Công nguyên có thành Luy Lâu (cách Hà Nội ngày nay 20km), được xem là trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước Việt, cũng là nơi có chùa Pháp Vân (chùa Dâu) được thành lập từ thế kỷ thứ 6.  Các thiền sư Phật giáo là những người hậu thuẫn mạnh mẽ cho Lý Thái Tổ.  Do những lẽ đó, Lý Thái Tổ mới quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long,

 

Thành Đại La (Thăng Long) được ưu điểm hơn thành Hoa Lư ở vị trí trung tâm nước ta lúc đó, nằm trên sông Hồng, dễ giao thông liên lạc, nhưng về địa lý chính trị, trong thế đối kháng với Trung Quốc thời bấy giờ, thì thành Đại La không lợi thế bằng thành Hoa Lư. 

 

Hoa Lư ở xa biên giới Trung Quốc hơn Đại La, đường sá lúc bấy giờ đi lại khó khăn, nên người Trung Quốc khó tấn công hơn.  Có thể chính vì Đại La gần Trung Quốc, dễ giao thông liên lạc với Trung Quốc, nên nhà cầm quyền Trung Quốc chọn Đại La làm thủ phủ của Giao Châu (cổ Việt) do họ đô hộ.  Cũng có thể chính vì thế, mà nhà Đinh, và nhà Tiền Lê bỏ Cổ Loa (Đông Anh, Phúc Yên), kinh đô của Ngô Quyền, gần Đại La và gần Trung Quốc, mà chọn Hoa Lư ở Ninh Bình làm thủ đô, xa biên giới Trung Quốc hơn, nhằm tránh áp lực tấn công của Trung Quốc. 

 

Để thu hút quần chúng, lúc đó còn nhiều mê tín dị đoan, Lý Thái Tổ tạo ra huyền thoại rằng khi nhà vua đi thuyền đến Đại La, có rồng xuất hiện trên bầu trời báo điềm lành, nên nhà vua cho đổi tên Đại La thành Thăng Long (rồng bay).  Đến năm 1014 (giáp dần) Lý Thái Tổ cho xây thành Thăng Long bằng đất, ngay trên vị trí của thành Đại La cũ.


 

2.-   KINH NGHIỆM NGÀN NĂM

 

Kể từ khi Lý Thái Tổ chọn Đại La làm kinh đô và đổi tên thành Thăng Long, tính cho đến ngày nay (2010), thành Thăng Long được một ngàn năm chẳn. Vì vậy, năm nay, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam (CSVN) quyết định tổ chức lễ kỷ niệm ngàn năm Thăng Long. 

 

Thông thường, kỷ niệm một người hay một sự kiện gì, là để tưởng nhớ công ơn người xưa hay hay những bài học từ chuyện xưa tích cũ, để từ đó rút ra những kinh nghiệm ứng dụng vào việc ứng xử ngày nay.  Riêng thành Thăng Long, trong một ngàn năm qua, Thăng Long đã chia sẻ đời sống với dân tộc Việt, thăng trầm theo sự thăng trầm của lịch sử Việt, và đã để lại những kinh nghiệm thật là quý báu.

 

Kinh nghiệm đầu tiên, dầu Thăng Long là kinh đô, được nhà cầm quyền Việt phòng thủ chặt chẽ, nhưng cũng đã bị ngoại bang tấn công và chiếm đóng nhiều lần.  Đó là các nước Trung Quốc, Chiêm Thành và Pháp.  Trong các nước nầy, nước tấn công và chiếm đóng Thăng Long nhiều lần nhất là Trung Quốc

 

Kinh nghiệm thứ hai là bất cứ nhà cầm quyền Trung Quốc nào cũng đều muốn tiến quân chiếm nước Việt, vừa để mở rộng biên giới, vừa để tìm đường xuống Đông Nam Á.  Vì vậy, bất cứ nhà cầm quyền Trung Quốc nào cũng lợi dụng cơ hội nước Việt suy yếu, tranh chấp nội bộ, hay xảy ra thay đổi triều đại, Trung Quốc liền chụp lấy thời cơ, đem quân sang tấn công nước ta.

 

Kinh nghiệm thứ ba là những cuộc xâm lăng bằng bạo lực vũ bảo, thì theo Đức Trần Hưng Đạo dễ chống đỡ hơn những cuộc xâm lăng theo kiểu tằm ăn dâu.  Trước khi Đức Trần Hưng Đạo từ trần năm 1300, vua Trần Anh Tông (trị vì 1293-1314) đến thăm và hỏi ý kiến phải làm sao nếu quân Nguyên trở qua lần nữa?  Trần Hưng Đạo đã dặn dò vua Anh Tông như sau: "Đại khái nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh.  Dùng đoản [binh] chế trường [trận] là sự thường của binh pháp.  Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự.  Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn đúng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha với con thì mới dùng được.  Vả lại khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.".(Toàn thư, bản dịch tập 2, sđd. tr. 79.)

 

Kinh nghiệm thứ tư là những cuộc xâm lăng nhằm mục đích quân sự hay kinh tế không nguy hiểm bằng những cuộc xâm lăng nhằm tiêu diệt văn hóa Việt để đồng hóa dân tộc Việt.  Những cuộc xâm lăng không tiếng súng bằng văn hóa ảnh hưỏng lâu năm trong đời sống dân tộc.  Tiêu biểu cho loại nầy là cuộc xâm lăng của nhà Minh vào thế kỷ 15.  Sau khi chiếm nước ta vào năm 1407, các tướng nhà Minh chẳng những vơ vét của cải, vàng ngọc, mà còn bắt giới trí thức cũng như nghệ nhân người Việt đem về Trung Quốc, tịch thu và chở về Trung Quốc hầu như toàn bộ sách vở nước Việt đã có từ thời Hồ Quý Ly trở về trước.  Đó là sách của các tác giả sau đây:


-Lý Thái Tông (Hình thư),

-Trần Thái Tông (Hình luật, Quốc triều thông lễ,  Kiến Trung thường lễ, Khóa hư tập, Ngự thi), Trần Thánh Tông (Di hậu lục, Cờ cừu lục, Thi tập),

-Trần Nhân Tông (Trung hưng thực lục, Thi tập),

-Trần Anh Tông (Thủy vân tùy bút),

-Trần Minh Tông (Thi tập),

-Trần Dụ Tông (Trần triều đại điển),

-Trần Nghệ Tông (Bảo hòa điện dư bút thi tập),

-Trần Hưng Đạo (Binh gia yếu lược, Vạn Kiếp bí truyền),

-Chu Văn Trinh tức Chu Văn An (Tứ thư thuyết ước, Tiều ẩn thi),

-Trần Quốc Toại (Sầm lâu tập),

-Trần Quang Khải (Lạc đạo tập),

-Trần Nguyên Đán (Băng Hồ ngọc hác tập),

-Nguyễn Trung Ngạn (Giới Hiên thi tập),

-Phạm Sư Mạnh (Giáp thạch tập),

-Trần Nguyên Đào (Cúc Đường di thảo),

-Hồ Tông Thốc tức Hồ Tông Vụ (Thảo nhàn hiệu tần, Việt nam thế chí, Việt sử cương mục),

-Lê Văn Hưu (Đại Việt sử ký), Nguyễn Phi Khanh (Nhị Khê thi tập), Hàn Thuyên (Phi sa tập), Lý Tế Xuyên (Việt điện u linh tập) ...

 

Cuối cùng, Trung Quốc là nước lân bang, ở ngay sát phía bắc nước ta, trong khi Pháp là một nước ở xa.  Người Trung Quốc và người Việt Nam có những điểm gần nhau về chủng tộc cũng như về văn hóa, đời sống.  Vì vậy, những cuộc xâm lăng của Trung Quốc nguy hiểm hơn cuộc xâm lăng của Pháp vì Pháp có thể bóc lột khai thác dân tộc Việt một thời gian, nhưng người Pháp khác chủng tộc, khác văn hóa, khác môi trường sống, người Pháp đến rồi đi, không ở lại vĩnh viễn ở nước ta như người Trung Quốc.

 


3.   NGÀN NĂM GƯƠNG CŨ SOI KIM CỔ

 

Bà Huyện Thanh Quan, vào đầu thế kỷ 19, khi nhà Nguyễn dời đô từ Thăng Long vào Phú Xuân, đã ngậm ngùi thương nhớ cố đô trong bài "Thăng Long thành hoài cổ" như sau:


"Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,

 Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.

Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,

 Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

 Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

 Nước còn cau mặt với tang thương.

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,

 Cảnh đấy người đây luống đoạn trường." 

 

Nếu Thăng Long là tấm gương mà Bà Huyện Thanh Quan mô tả: "Ngàn năm gương cũ soi kim cổ", thì tấm gương đó đã ẩn chứa biết bao nhiêu anh hùng liệt nữ đã hy sinh vì dân tộc, nhưng đồng thời tấm gương đó cũng phản chiếu rất đầy đủ những kẻ phản quốc hại dân, nhất là trong thời hiện đại, kể từ khi xuất hiện đảng CSVN.

 

Trước hết, theo sử sách, Lý Thái Tổ dời đô đến Thăng Long sau một cuộc đảo chánh và tuyên chiếu đời đô, nói rõ nguyên nhân vì sao nhà vua dời đô.  Năm 1945, Hồ Chí Minh cũng dời đô từ Huế ra Hà Nội, cũng sau một cuộc đảo chánh.  Hồ Chí Minh không có chiếu dời đô, mà có bản "Tuyên ngôn độc lập".  "Tuyên ngôn độc lập" nói rõ lý do đảo chánh, kết án thực dân Pháp.

 

Những lời kết án nầy lại chính là lời báo trước chủ trương chính sách của CSVN cho đến ngày nay.  Hãy trích vài câu trong bản 'Tuyên ngôn: "Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào….Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học.  Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta.  Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.  Chúng ràng buộc dư luận thi hành chính sách ngu dân.  Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn, để làm cho nòi giống ta suy nhược…Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.  Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.  Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng."

 

Chữ "chúng" trong bản "Tuyên ngôn" dùng để chỉ người Pháp.  Tuy nhiên, ứng dụng những câu trên trong bản tuyên ngôn vào hoàn cảnh ngày nay, chủ từ trong những câu trên không ai khác hơn là CSVN: "không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào…. nhà tù nhiều hơn trường học, thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi, tắm các cuộc khởi nghĩa trong những bể máu, thi hành chính sách ngu dân, dùng thuốc phiện [ma túy], rượu cồn [nhậu khắp n ước], để làm cho nòi giống ta suy nhược… cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệ,  giữ độc quyền in giấy bạ [Ngân hàng nhà nước Việt Nam], đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý ..."

 

Nếu có một người nào nghịch ngợm, viết lại các câu nầy trong bản Tuyên ngôn do chính Hồ Chí Minh viết và đọc, nhưng đừng ghi xuất xứ, rồi gởi cho nhà cầm quyền CSVN hiện nay, người đó sẽ không khỏi bị công an CS bắt giữ ngay, giống như bắt giữ những người mang 6 chữ vàng HS-TS-VN (Hoàng Sa-Trưòng Sa-ViệtNam).

 

Trở lại chuyện Lý Thái Tổ dời đô.  Nhà vua dời đô vào tháng 7 âm lịch.  Nhà cầm quyền CSVN hiện nay ở Hà Nội tổ chức lễ kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long vào ngày 1-10-2010, tức ngày 24-8 năm canh dần (âm lịch).  Trong lịch sử Việt Nam, ngày 1-10 không ghi dấu bất cứ một sự kiện quan trọng nào của đất nước.  Trong lịch sử thế giới, ngày 1-10-1949, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, tức 1-10 là ngày quốc khánh của Cộng sản Trung Quốc. 

 

Tổ chức lễ kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long vào ngày quốc khánh Trung Quốc, nhà cầm quyền CSVN làm cho mọi người cảm giác là nhà cầm quyền CSVN muốn cùng góp vui với Trung Quốc nhân quốc khánh Trung Quốc, trong khi kinh nghiệm ngàn năm Thăng Long cho thấy Trung Quốc là nước lớn luôn luôn tìm cơ hội tấn công, chiếm đóng và thống trị Thăng Long, nghĩa là nhà cầm quyền Trung Quốc là kẻ thù số một của Thăng Long.

 

Sở dĩ mọi người có cảm giác như vậy vì quan hệ mật thiết giữa đảng CSVN và đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) trong 80 năm qua, từ khi Hồ Chí Minh vâng lệnh Đệ tam Quốc tế Cộng Sản thành lập đảng CSVN tại Hồng Kông ngày 6-1-1930.  Từ đó, đảng CSVN phát triển dưới ô dù của đảng CSTQ, nhất là từ năm 1950, khi Hồ Chí Minh cầu viện Liên Xô không được, phải quay qua nhờ Trung Quốc giúp đỡ.

 

Tục ngữ Việt Nam có câu: "Bà con xa không bằng láng giềng gần", chỉ đúng trong trường hợp người bạn láng giềng gần tử tế, lương thiện không hiếp đáp mình.  Đàng nầy, người bạn láng giềng gần Trung Quốc qua kinh nghiệm một ngàn năm Thăng Long, là kẻ ỷ thế nước lớn, đã nhiều lần hiếp đáp và chiếm đóng nước ta.  Vì vậy nhờ Trung Quốc đánh Pháp là một sai lầm lớn lao, nếu không muốn nói là một tội lỗi của Hồ Chí Minh và đảng CSVN đối với dân tộc, vì một khi giúp Việt Nam đuổi Pháp, Trung Quốc sẽ điền thế chỗ của Pháp, thống trị Việt Nam. Sự thống trị của Trung Quốc còn tệ hại hơn của Pháp.  Bằng chứng là dưới thời Pháp thuộc, nước Việt vẫn vẹn toàn lãnh thổ.  Trong khi nhờ Trung Quốc đánh Pháp, gọi là giành độc lập, mà dần dần nước ta mất đất, mất biển vào tay Trung Quốc

 

Sau đó, cầu viện Trung Quốc để đánh Mỹ lại càng sai lầm hơn nữa.  Có hai sự kiện cụ thể dễ thấy chứng minh sự sai lầm của CSVN trong vụ chống Mỹ.  Thứ nhất, chỉ cần nhìn qua các nước Á Châu gần nước Việt.  Mỹ chiến thắng Nhật Bản, tiến quân đến Triều Tiên, nhưng Mỹ đâu có xâm lăng hai nước nầy, mà còn giúp hai nước nầy phục hưng sau thế chiến và cường thịnh như ngày nay.  Thứ hai, chính nhà cầm quyền CSVN, vào đầu thế kỷ 21, trải thảm đỏ rước Mỹ vào để vực dậy nền kinh tế Việt Nam và làm đối trọng với Trung Quốc trong cuộc tranh chấp Biển Đông.

 

Tuy hiện nay muốn nhờ Mỹ để lấy thế mặc cả với Trung Quốc, CSVN vẫn còn nằm dưới trướng của Trung Quốc, vẫn muốn đu giây giữa Trung Quốc và Mỹ, và nhất là lo sợ đàn anh Trung Quốc trả đũa giống như đã từng trả đũa năm 1979 khi CSVN bỏ Trung Quốc chạy theo Liên Xô, nên bị Trung Quốc "dạy" cho một bài học.  Phải chăng vì vậy mà đảng CSVN làm lễ kỷ niệm ngàn năm Thăng Long vào ngày 1-10-2010 để gọi là mừng ngàn năm Thăng Long, nhưng thực chất là mừng quốc khánh Trung Quốc nhằm lấy lòng đàn anh Trung Quốc? 

 

Muốn chống lại Trung Quốc, chẳng những phải mượn thế của Mỹ, mà quan trọng hơn phải tạo nội lực dân tộc, phải thực hành như Đức Trần Hưng Đảo đã dạy: "Vả lại khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy."  Khoan thư sức dân như thế nào, chắc chắn đảng CSVN dư biết, nhưng cũng chắc chắn không phải cách kỷ niệm ngàn năm Thăng Long đúng vào ngày quốc khánh Trung Quốc.

 

Kỷ niệm ngàn năm Thăng Long là để tưởng nhớ đến sự kiện lập đô hết sức trọng đại của Lý Thái Tổ và tưởng nhớ đến quá trình sống còn của dân tộc với kinh đô Thăng Long, mà CSVN lại tổ chức vào ngày quốc khánh Trung Quốc, là một hành vi quốc nhục, xỉ vả vào lịch sử Thăng Long, lăng nhục lịch sử dân tộc.  Tuyệt đại đa số người Việt Nam không chấp nhận thái độ kinh mạn nầy của CSVN.  Lễ kỷ niệm chỉ diễn ra vài ngày phù du, nhưng vết nhơ quốc nhục do đảng CSVN gây ra sẽ được dân chúng truyền tụng thiên thu, theo như câu ca dao:: "Trăm năm bia đá thì mòn,/ Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ."

 


TRẦN GIA PHỤNG



--

Người Quốc Gia là những người đặt Tổ Quốc lên bản vị tối cao, tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi vật, kể cả tôn giáo, đảng phái, và cả chính bản thân mình.